LỜI GIỚI THIỆU

Website  honguyenquancong.com là kênh thông tin chính thức của dòng họ

Nguyễn Huế - Gia Định, là diễn đàn trao đổi giữa các chi họ Nguyễn trong

và ngoài nước. Ban quản trị Website mong muốn nhận được bài viết, hình

ảnh về các hoạt động của các chi họ để trang Web thêm phong phú, đa dạng.

Mọi thông tin xin gửi về địa chỉ Email: honguyenquancong@gmail.com hoặc

duyhung12258@gmail.com. 

NGUYỄN VĂN THÀNH (1758-1817) - THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP

Tham luận của PGS-Tiến sĩ Nguyễn Đức Nhuệ

Sách Đại Nam liệt truyện cho biết: Nguyễn Văn Thành quê gốc người Quảng Điền, phủ Thừa Thiên. Từ thời ông tằng tổ (tên là Toán) bắt đầu rời vào Gia Định. Ông nội tên là Tính lại rời đến Bình Hòa. Thân sinh Nguyễn Văn Thành tên là Hiền lại rời vào Gia Định. Nguyễn (Văn) Hiền là người khảng khái đảm lược. Năm Quý Tỵ (1773), quân Tây Sơn do Nguyễn Nhạc chỉ huy đánh vào Bình Thuận, các tướng của chúa Nguyễn Phúc Thuần là Tống Phước Hợp (Lưu thủ Long Hồ), Cai bạ Nguyễn Kha Thuyên kêu gọi Cần vương, Nguyễn (Văn) Hiền đem hương dũng đi theo, được trao chức Cai đội, quản bộ binh Tiền chi chống nhau với quân Tây Sơn ở Phan Rang, sau lui về giữ Nha Trang và bị tử trận[1].

Nguyễn Văn Thành theo cha chinh chiến từ nhỏ. Sau khi cha tử trận, Nguyễn Văn Thành theo Tống Phước Hợp, được chúa Nguyễn Phúc Thuần trao cho chức Cai đội. Năm Bính Thân (1776), quân Tây Sơn đánh vào Gia Định, Nguyễn Văn Thành mộ được 800 quân theo Đỗ Thanh Nhân thu phục Sài Gòn và được Đỗ Thanh Nhân sai làm bộ binh tiên phong. Năm 1778, Nguyễn Ánh xưng vương ở Sài Gòn, cho triệu Nguyễn Văn Thành về giúp rập. Từ thời điểm này trở đi, Nguyễn Văn Thành trở thành một tướng lĩnh thân cận của Nguyễn Ánh, có nhiều công lao giúp Nguyễn Ánh trong quá trình khôi phục lại quyền lực của dòng họ Nguyễn ở Nam Hà cũng như lật đổ nhà Tây Sơn, lập nên vương triều Nguyễn vào năm Nhâm Tuất (1802).

1. Phò tá Nguyễn Ánh trong cuộc chiến với nhà Tây Sơn (1778 - 1802)

Năm 1771, cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn bùng nổ tại ấp Tây Sơn (Bình Định) với lực lượng nghĩa quân buổi đầu lên đến vài ngàn người. Năm 1773, nghĩa quân hạ thành Quy Nhơn và phát triển thế lực ra Quảng Ngãi, vào Bình Thuận. Lợi dụng lúc chính quyền Đàng Trong suy sụp trước sức tiến công của quân Tây Sơn, năm 1774, quân Lê - Trịnh tiến công vào Nam. Nghĩa quân Tây Sơn tạm thời hòa hoãn với quân Trịnh để tập trung lực lượng tiêu diệt quân Nguyễn. Sau khi quân Trịnh rút về Bắc, miền Quảng Nam do quân Tây Sơn quản giữ.

Từ năm 1776 đến giữa năm 1777, sau nhiều trận giao tranh, quân Nguyễn bị thất bại nặng nề, lực lượng quân Nguyễn đáng kể nhất ở Gia Định đã bị tiêu diệt, toàn bộ miền đất đai từ Phú Yên đến Hà Tiên thuộc quyền kiểm soát của quân Tây Sơn. Tháng 10 năm 1777, Nguyễn Huệ đem quân về Quy Nhơn, miền Gia Định giao cho các tướng lĩnh và một đạo quân nhỏ đóng giữ.

Tháng 11 năm 1777, Nguyễn Ánh từ đảo Thổ Chu về đến Ba Giòng, các tướng cũ như của chúa Nguyễn bấy lâu lẩn tránh Tây Sơn, giờ cũng đem quân về hội kiến. Cuối năm 1777, quân Nguyễn tổ chức tiến công và chiếm được dinh Long Hồ, tiếp đó, đầu năm 1778 lại chiếm được Gia Định. Các tướng sĩ Tây Sơn phải chạy về Quy Nhơn.

Tháng 6 năm 1781, Nguyễn Ánh tổ chức 3 đạo quân ra đánh quân Tây Sơn tại Bình Khang. Tuy nhiên cuộc tấn công của quân Nguyễn đã gặp thất bại lớn, phần vì bị quân Tây Sơn chống trả quyết liệt, phần vì bị quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhân nổi loạn ở Ba Giồng sau khi Đỗ Thanh Nhân bị Nguyễn Ánh sát hại, đã quay sang tấn công quân Nguyễn.

Sau sự kiện này, các thủ lĩnh nghĩa quân Tây Sơn quyết định tập trung lực lượng tiến đánh Gia Định quyết không để cho thế lực của quân Nguyễn phát triển thêm nữa.

Tháng 4 năm 1782, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ chỉ huy một đạo bộ binh và một đạo thuỷ binh gồm vài trăm chiến thuyền từ Quy Nhơn tiến đánh Gia Định. Toàn bộ miền Gia Định lại thuộc quyền kiểm soát của quân Tây Sơn. Tháng 6 năm 1782, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đem đại quân trở về Quy Nhơn, chỉ để lại Gia Định 3.000 quân do Đỗ Nhàn Trập (một viên tướng Đông Sơn về hàng) cùng với Hộ bộ Tây Sơn tên là Bá chỉ huy.

Chỉ một tháng sau khi đại quân Tây Sơn rút khỏi Gia Định thì quân Nguyễn ở lại hoạt động trở lại, tập trung lực lượng đánh bại quân Tây Sơn ở Lật Giang. Cuối tháng 10 năm 1782, Chu Văn Tiếp cho người ra đảo Phú Quốc báo tin và đón Nguyễn Ánh về Gia Định. Dự đoán quân Tây Sơn sẽ tiến vào đánh chiếm lại Gia Định, Nguyễn Ánh một mặt lo tăng cường phòng bị, mặt khác ra sức mộ binh, tăng cường và củng cố lực lượng. Ở phía Nam sông Gia Định, Nguyễn Ánh cho lập đồn Thảo Câu (Vàm Cỏ) do Dương Công Trừng đóng giữ, phía Bắc lập đồn Giác Ngư (Dốc Cá) do Tôn Thất Mân chỉ huy. Giữa hai đồn, Nguyễn Ánh cho bắc cầu phao để hai đồn ứng cứu lẫn nhau khi lâm sự. Dưới lòng sông, quân Nguyễn cho đóng cọc để ngăn cản thủy binh Tây Sơn và trên mặt sông lúc nào cũng bố trí 100 chiến thuyền sẵn sàng ứng phó.

Tháng 3 năm 1783, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đem thủy quân tiến vào cửa biển Cần Giờ và nhanh chóng chia làm hai cánh quân áp sát phòng tuyến Gia Định, tiêu diệt một lực lượng lớn quân Nguyễn buộc Nguyễn Ánh lại phải chạy ra đảo Cổ Long rồi sang đảo Cổ Cốt để ra Phú Quốc. Quân Tây Sơn tiếp tục truy đuổi nhưng không bắt được, Nguyễn Ánh lại trở về Phú Quốc, định quay vào cửa biển Ông Đốc để tiến về Long Xuyên nhưng gặp quân mai phục của Tây Sơn nên buộc phải quay thuyền về Phú Quốc, qua Hòn Chông chạy thẳng ra đảo Thổ Chu.

Tháng 3 năm 1784, từ đảo Thổ Chu, Nguyễn Ánh quyết định chạy sang Xiêm, cầu cứu vua Xiêm đem quân sang giúp chống lại quân Tây Sơn. Tuy nhiên, liên minh Xiêm - Nguyễn đã bị quân Tây Sơn đánh bại trên chiến trường Rạch Gầm - Xoài Mút (1785). Sau trận thua này, Nguyễn Ánh phải chạy sang Xiêm, xin vua Xiêm cho nương nhờ ở khu Đồng Khoai, ngoài thành Vọng Các, cùng các tướng sĩ vỡ ruộng, khẩn hoang làm kế sinh nhai.

Tháng 5 năm 1785, Nguyễn Huệ đem đại binh về Quy Nhơn, để Đô úy Đặng Văn Trấn ở lại giữ Gia Định.

Từ năm 1786, Nguyễn Lữ được phong làm Đông Định vương đóng giữ đất Gia Định. Đây là địa bàn hoạt động cũ của các chúa Nguyễn. Tầng lớp địa chủ Gia Định đông và giàu có luôn tìm mọi cách ủng hộ Nguyễn Ánh cả về của cải và lực lượng quân sự để chống phá nhà Tây Sơn, khôi phục lại quyền thống trị. Sau chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút (1785), Nguyễn Huệ đưa đại quân ra Quy Nhơn, lực lượng quân Tây Sơn ở Gia Định khá mỏng, quân Nguyễn lại tiếp tục trỗi dậy chống phá nhưng Nguyễn Lữ chỉ đóng quân ở thành Gia Định và cho các tướng chia quân đóng giữ ở một số thành luỹ quan trọng mà không tổ chức tiến công trấn áp quân Nguyễn, tạo cơ hội cho Nguyễn Ánh xây dựng và củng cố lực lượng.

Tháng 8 năm 1787, Nguyễn Ánh đem đội quân từ Xiêm về tiến đánh quân Tây Sơn thì ở nhiều nơi nổi lên hưởng ứng, quân “đông như mây họp, thanh thế rất lớn”, liên tiếp tấn công quân Tây Sơn và thu được nhiều thành quả to lớn. Tới tháng 9 năm 1788, Nguyễn Ánh chiếm lại được Gia Định.

Sau khi chiếm được Gia Định, Nguyễn Ánh đã ra sức xây dựng và củng cố lực lượng, chuẩn bị kế hoạch tấn công nhà Tây Sơn mà mục tiêu đầu tiên là đánh chiếm Bình Thuận. Từ thời điểm này trở đi, vai trò của Nguyễn Văn Thành trong công cuộc khôi phục quyền lực của Nguyễn Ánh thật sự được phát huy. Năm 1798, Nguyễn Văn Thành được chúa Nguyễn Ánh phong chức Khâm sai chưởng cơ Chưởng Tiên phong dinh Bình Tây tiền tướng quân Lưu trấn thành Diên Khánh và trở thành một tướng lĩnh tin cậy, phò tá đắc lực của Nguyễn Ánh.

 Tháng 6 năm 1790, Nguyễn Ánh sai Lê Văn Quân chỉ huy 6.000 quân thủy bộ tiến đánh Bình Thuận. Võ Tánh và Nguyễn Văn Thành lĩnh quân tiên phong. Do có sự bất hòa trong hàng ngũ tướng lĩnh về kế hoạch tấn công nên Nguyễn Ánh điều Võ Tánh và Nguyễn Văn Thành về Gia Định, chỉ để một mình Lê Văn Quân điều khiển binh tướng. Lê Văn Quân đem quân đến đóng ở Phan Rang, các tướng Tây Sơn đem 9.000 quân bộ từ Diên Khánh phối hợp quân thủy tiến đến cửa biển Phan Rang đón đánh, chiếm được Nha Phân, Mai Nương. Lê Văn Quân thua to, quân tan vỡ, liền cho người về Gia Định cáo cấp. Nguyễn Ánh lập tức sai Võ Tánh và Nguyễn Văn Thành đem quân trở ra Bình Thuận cứu viện. Tháng 2 năm 1792, Nguyễn Ánh vạch kế hoạch tiến công quân Tây Sơn: “Chi bằng dùng nhiều phương để lừa nó, đánh gấp để cho nó mệt. Hằng năm gặp mùa gió, thủy quân theo đường biển mà tiến, nhân chỗ hở mà đánh. Bộ binh đi từ Bình Thuận, Bình Khang, lần lượt tiến lấy được một châu thì xây thành ở một châu, được một huyện thì đóng đồn ở một huyện, để làm phên giậu cho Gia Định, khiến thế giặc chia ra, sức giặc yếu đi, như thế thì có thể lấy thiên hạ được[2].  

Tháng 6 năm 1792, nhận thấy Nguyễn Nhạc có ý định tấn công Gia Định khi cho tập trung rất nhiều thuyền chiến ở cửa biển Thi Nại (Quy Nhơn), Nguyễn Ánh liền tổ chức phản công trước. Nguyễn Ánh để một số tướng ra giữ Bà Rịa còn tự mình làm tướng cùng với Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thành… đem 128 chiến thuyền tiến ra cửa biển Cần Giờ… rồi tiến đến cửa biển Thị Nại đốt phá thủy trại Tây Sơn, bắt được 5 chiến thuyền lớn, 30 thuyền đi biển, 40 thuyền vừa chứa đủ lương thảo khí giới... 

Tháng 4 năm 1793, Nguyễn Ánh để Đông cung Cảnh ở lại giữ Gia Định, tự mình chỉ huy quân, cùng Nguyễn Văn Thành và các tướng đi đánh Phan Rí, đem thủy quân theo đường biển đánh phá các đồn lẻ rồi tiến thẳng đến bến Nha Trang, đổ quân lên đánh chiếm phủ Diên Khánh và phủ Bình Khang. Quân Tây Sơn tan vỡ. Thái tử Nguyễn Bảo (con Nguyễn Nhạc) đem quân ra chống cự bị thua, chạy về giữ Quy Nhơn. Hai cánh quân thủy bộ của Nguyễn Ánh hợp với nhau tiến đánh các đồn lẻ và vây thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc phải cho người ra Phú Xuân cầu cứu. Lúc này Quang Trung đã mất, Nguyễn Quang Toản cử đại binh vào cứu Quy Nhơn. Trước thanh thế rất mạnh của quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh bèn rút quân về Gia Định, để Nguyễn Văn Nhân ở lại, đắp đồn La Thái giữ Phú Yên, Nguyễn Văn Thành giữ Diên Khánh, Nguyễn Hoàng Đức giữ Bình Khang.

Đến đầu năm 1798, thấy thế lực Tây Sơn ngày càng suy yếu, Nguyễn Ánh lại cử đại binh ra đánh Quy Nhơn. Tháng 4, thủy quân Nguyễn tiến vào cửa biển Thị Nại, Võ Tánh và Nguyễn Hoàng Đức đem quân lên bộ đến đóng ở Trúc Khê, Nguyễn Văn Thành đem bộ binh ra đánh chiếm được Phú Yên rồi tiến thẳng lên tiếp ứng cho Võ Tánh vây thành Quy Nhơn. Đại đô đốc Tây Sơn là Lê Chất đem theo 200 quân ra hàng Nguyễn. Nguyễn Quang Toản sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đem binh từ Phú Xuân vào cứu Quy Nhơn. Khi ấy quân Nguyễn đã tiến đến chiếm đóng Tân Quan (Quảng Ngãi), quân Tây Sơn bèn bỏ thuyền lên bộ. Trần Quang Diệu đóng giữ núi Thạch Tân (Bến Đá) làm thanh thế, còn Vũ Văn Dũng đem quân đi tắt đường núi Chông Xá định đánh úp cánh quân của Lê Văn Duyệt, Tống Viết Phúc nhưng bị đánh bật trở lại, tan vỡ. Tổng binh Trấn thủ Quy Nhơn là Lê Văn Thanh không thấy viện binh đến liền mở cửa thành ra hàng quân Nguyễn. Nguyễn Ánh liền đổi tên Quy Nhơn thành Bình Định.

Từ năm 1799 đến 1802, quân Nguyễn và quân Tây Sơn giao chiến với nhau nhiều trận. Tháng 2 năm 1801, Nguyễn Ánh chiếm được Quảng Nam, tháng 6 chiếm thành Phú Xuân, triều đình Tây Sơn bị bắt gần hết. Đến tháng 6 năm 1802, Nguyễn Ánh chiếm được Bắc Hà, vương triều Tây Sơn sụp đổ hoàn toàn.

Triều đại Tây Sơn, đặc biệt là triều đại của vua Quang Trung đã ghi vào lịch sử dân tộc với những chiến công hiển hách trong sự nghiệp thống nhất, xóa nhòa ranh giới Đàng Trong - Đàng Ngoài kéo dài hơn 200 năm và trong sự nghiệp chống ngoại xâm bảo vệ nền độc lập dân tộc (chống Xiêm năm 1785; chống Mãn Thanh, năm 1789). Triều đại này cũng đã để lại nhiều dấu ấn quan trọng qua các dự định cải cách (văn hóa, kinh tế…) nhưng còn dang dở, nhất là sau khi vua Quang Trung qua đời. Sự nhanh chóng sụp đổ của vương triều Tây Sơn nguyên nhân chính là do quá trình phân quyền, phân lập, thiếu thống nhất tập trung quyền lực diễn ra từ rất sớm trong khi đất nước đã thống nhất; là sự mâu thuẫn, xung đột nội bộ triều chính ngày càng gay gắt đã tạo điều kiện cho Nguyễn Ánh khôi phục lại lực lượng và nhanh chóng chiếm ưu thế trong cuộc tranh giành quyền lực. 

Ngày mùng 2 tháng 5 năm Nhâm Tuất (tức ngày 01 tháng 6 năm 1802), Nguyễn Ánh đặt niên hiệu là Gia Long, mở đầu cho vương triều Nguyễn. Kinh đô đóng ở Thuận Hóa (Huế).

 2. Phụng sự vương triều Nguyễn, giai đoạn 1802 - 1816

Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, thống nhất đất nước, ngày mùng Một (Canh Ngọ) tháng Năm năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Ánh cho lập đàn ở cánh đồng An Ninh (Huế) hợp tế trời đất cáo về việc đặt niên hiệu. Ngày hôm sau - mùng 2 (ngày Tân Mùi) - đặt lễ kính cáo vong linh tổ tiên nhà Nguyễn.

Làm lễ xong, Nguyễn Ánh ngự ở điện, nhận lễ chầu mừng, đặt niên hiệu là Gia Long, đại xá thiên hạ[3]. Phải 4 năm sau, tháng Năm năm Bính Dần (1806), Gia Long sai đặt đại lễ kính cáo trời đất và kính cáo các miếu, đăng quang ngôi Hoàng đế ở điện Thái Hoà, xuống chiếu bố cáo trong ngoài[4]. Thời kỳ trị vì của vua Gia Long bắt đầu từ năm Nhâm Tuất (1802) đến khi ngài băng hà tại điện Trung Hòa vào ngày mùng 7 (Đinh Mùi), tháng 12 năm Kỷ Mão[5] (tháng 1 năm 1820), hưởng thọ 58 tuổi.

Trong những năm đầu triều Gia Long, tình hình chính trị xã hội của đất nước không có những biến động đáng kể. Đây đó có nổ ra một vài cuộc nổi dậy với danh nghĩa phù Lê nhưng quy mô của các cuộc nổi dậy này không lớn, không ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền tảng chính trị của vương triều[6]. Từ năm 1802, vương triều Nguyễn đã cơ bản thống nhất đất nước, làm chủ một lãnh thổ trải dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, bao gồm cả Đàng Trong và Đàng Ngoài (thời Lê - Trịnh và chúa Nguyễn). Để xây dựng một vương triều vững mạnh, vua Gia Long phải giải quyết hài hòa nhưng thống nhất về chế độ chính trị khác nhau của 3 miền trong buổi đầu dựng nghiệp[7]. Do vậy, hệ thống chính quyền trung ương thời Gia Long chỉ là “quyền nghi tạm đặt”. Bắt đầu từ thời Minh Mệnh (1820-1841) việc cải tổ, kiện toàn và hoàn thiện bộ máy Nhà nước mới được thực hiện một cách quy củ và nhà Nguyễn thật sự trở thành một nhà nước quân chủ chuyên chế phát triển đến đỉnh cao.

Sau khi thành lập, vương triều Nguyễn đã thừa hưởng được một thành quả to lớn của phong trào nông dân Tây Sơn trong sự nghiệp thống nhất đất nước, làm chủ một lãnh thổ trải dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, bao gồm cả Đàng Trong và Đàng Ngoài. Bắt đầu từ thời Minh Mệnh (1820-1841) việc cải tổ, kiện toàn và hoàn thiện bộ máy Nhà nước mới được thực hiện một cách quy củ và nhà Nguyễn thật sự trở thành một nhà nước quân chủ chuyên chế phát triển đến đỉnh cao.

Vương triều Nguyễn được thành lập trong một bối cảnh chính trị - xã hội tương đối phức tạp. Nhà Nguyễn phải đối mặt với nhiều khó khăn trở ngại. Sự chia cắt Đàng Trong - Đàng Ngoài trong hơn hai thế kỷ đã tạo nên sự khác biệt nhất định về thể chế chính trị hai miền, về cách thức tổ chức và phương pháp quản lý. Nhà Tây Sơn tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi nhưng trên thực tế quyền lực bị phân tán nên chưa có điều kiện và khả năng tạo nên một mô hình tổ chức chính quyền thống nhất. 

Tuy dòng họ Nguyễn có nguồn gốc từ xứ Thanh, tổ tiên nhà Nguyễn gắn bó mật thiết với vương triều Lê - Trịnh nhưng trên thực tế vua Gia Long không thể hiểu một cách tường tận về đất Bắc Hà, về tâm lý “hoài Lê” của cựu thần nhà Lê và nhân dân Bắc Hà. Đây chính là những vấn đề mà Gia Long rất quan tâm và thận trọng khi tiến hành xây dựng mô hình bộ máy chính quyền buổi đầu. Để xây dựng một vương triều vững mạnh, vua Gia Long phải giải quyết hài hòa nhưng thống nhất về chế độ chính trị khác nhau của 3 miền trong buổi đầu dựng nghiệp[8].  

Dưới thời Gia Long, triều đình Trung ương trực tiếp quản lý 4 dinh và 7 trấn từ Thanh Hoa ngoại đến Bình Thuận. Đây là 4 dinh trực lệ được thiết lập ở khu vực kinh đô vào năm 1802 gồm Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình và Quảng Nam. Mỗi dinh trên được chia ra làm một số huyện. Ở huyện đặt viên Huyện lệnh đứng đầu. Dưới huyện đặt tổng và xã.

Ở phía Bắc từ Sơn Nam Hạ trở ra bao gồm 11 nội, ngoại trấn. Ban đầu ở Bắc Hà, Gia Long vẫn cho duy trì đơn vị trấn từ thời Lê. Mỗi trấn đặt một Trấn thủ, dùng chức Thống chế, chưởng cơ, cai cơ cho làm, và một Hiệp trấn, một Tham trấn, dùng chức thiêm sự, tham quân, hàn lâm, thị thư cho làm[9]. Các trấn từ Nghệ An trở ra Bắc đều được ban ấn đồng.

Nhân chuyến tuần du ra Bắc năm 1802, vua Gia Long cho triệu Nguyễn Văn Thành đến hành tại để bàn xếp đặt công việc Bắc Thành. Tuy là một võ tướng nhưng Nguyễn Văn Thành được coi là người “có chút học thức và biết thể thức chính trị” nên được Gia Long rất tín nhiệm. Tháng 9 năm Nhâm Tuất (1802), bàn đặt chức Tổng trấn Bắc Thành, vua Gia Long cho rằng: “…đất Bắc Hà vừa dẹp yên, dân vật đều mới, mà thành Thăng Long lại là nơi quan trọng của Bắc Hà, cần có trọng thần để trấn giữ mới được”. 

Nguyễn Văn Thành được cử làm Tổng trấn Bắc Thành, được ban sắc ấn, 11 trấn nội ngoại đều lệ thuộc. Phàm những việc cất bãi quan lại, xử quyết kiện tụng, đều được tùy mà làm rồi sau mới tâu. Gia Long lại cho đặt ba tào Hộ, Binh, Hình ở Bắc Thành chuyên phụ trách riêng về kinh tế, chiến tranh và pháp luật, lấy Hộ bộ Nguyễn Văn Khiêm, Binh bộ Đặng Trần Thường, Hình bộ Phạm Như Đăng kiêm lĩnh các tào ấy, theo Tổng trấn Nguyễn Văn Thành để xét biện công việc3.

Trước khi rời Thăng Long về Phú Xuân, vua Gia Long dụ Nguyễn Văn Thành rằng: “Công việc Bắc Thành, ủy hết cho khanh, khanh nên cố gắng”. Văn Thành vâng mệnh, nhân đó tâu rằng: “Việc binh việc dân và việc lý tài ở Bắc Thành ba điều ấy rất quan trọng, phải xếp đặt rất nhiều, thần xin ngày ghi từng việc, mỗi tháng đóng thành tập đệ tâu một lần[10]

Ở Bắc Thành chia làm 11 trấn và phủ Phụng Thiên, trong đó 5 nội trấn và 6 ngoại trấn. Nội trấn gồm: Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Hải Dương, Kinh Bắc, Sơn Tây.  Ngoại trấn gồm: Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hoá, Lạng Sơn, Cao Bằng, Yên Quảng. Ở mỗi nội trấn nhà Nguyễn cho đặt hai ty Tả thừa và Hữu thừa. Hai ty này vốn do ty Xá sai và ty Tướng thần đổi thành. Mỗi ty đặt 1 Câu kê, 1 Cai hợp, 1 Thủ hợp và 22 người thuộc ty.

Dưới trấn chia ra các phủ. Dưới mỗi phủ chia thành các huyện. Huyện chia làm nhiều tổng, ở mỗi tổng đặt 1 người làm Tổng trưởng và 1 viên Phó tổng. 

Đối với 6 ngoại trấn của Bắc Thành cũng đặt 2 ty Tả thừa, Hữu thừa. Tại mỗi ty đều đặt 1 Cai hợp, 1 Thủ hợp cùng 13 người thuộc ty[11].

Cùng với việc cắt đặt quan chức ở Bắc Thành, ở phủ Phụng Thiên, Gia Long cho đặt một An phủ sứ và Tuyên phủ sứ; lấy Cai cơ Nguyễn Bá Xuyến lãnh chức An phủ sứ, tham quân Lê Văn Minh làm Tuyên phủ sứ cùng cai quản hai huyện Thọ Xương, Quảng Đức thuộc phủ Phụng Thiên (thành Thăng Long), đồng thời lấy Học sĩ Nguyễn Đình Tứ làm Đốc học phủ Phụng Thiên. Năm 1805 Gia Long cho đổi phủ Phụng Thiên làm phủ Hoài Đức, huyện Quảng Đức thuộc phủ Phụng Thiên đổi làm huyện Vĩnh Thuận.

Trước đó, để chuẩn bị nhân sự bổ sung đội ngũ quan lại cho bộ máy chính quyền ở Bắc Thành, vua Gia Long ban dụ các cựu thần nhà Lê và những hương cống học trò. Chiếu rằng : “… Nay…, võ công cả định, chính là buổi chấn hưng văn hóa, xây dựng trị bình. Nhân tài trong đời há chịu cùng với cỏ cây mục nát sao? Vậy nên báo cáo cho nhau, đều đến hành tại để cho bọn Chưởng Tiền quân Nguyễn Văn Thành, Lễ bộ Đặng Đức Siêu, Tán lý Đặng Trần Thường, Tham tri Phạm Như Đăng, Học sĩ Nguyễn Viên, lần lượt dẫn vào yết kiến. Ta sẽ nghe lời nói thử việc làm, tùy tài bổ dụng, cho người hiền được có vị, người tài được có chức, họp lòng nghĩ, chia mưu làm, để cùng nên đạo trị nước”. Do đó những người ẩn dật ở Bắc Hà tranh nhau ra giúp việc3

Với cương vị là Tổng trấn Bắc Thành, Nguyễn Văn Thành từng xử lý và giải quyết nhiều công việc liên quan đến an ninh trật tự địa bàn, triển khai nhiều chính sách của triều đình liên quan đến đời sống dân sinh, đồng thời đưa ra nhiều kiến nghị nhằm đảm bảo ổn định đời sống chính trị, phát triển kinh tế, chấn hưng văn hóa ở Bắc Thành buổi đầu triều Nguyễn thành lập.

* Đảm bảo an ninh trật tự ở Bắc Thành:

Bắc Thành có địa bàn khá rộng lớn. Tại Bắc Thành, lực lượng phù Lê còn rất đông đảo. Trong những năm đầu triều Gia Long, nhiều cuộc nổi dậy đã diễn ra ở Bắc Thành.  Ngay từ khi Gia Long lên ngôi năm 1802, các cuộc nổi dậy chống lại triều Nguyễn đã bắt đầu bùng phát.

Theo ghi chép của Phan Thúc Trực trong Quốc sử di biên: Tháng 8 năm Quý Hợi (1803), đã xuất hiện cuộc nổi dậy do các tướng lĩnh của triều Tây Sơn, xưng theo niên hiệu Bảo Hưng, đánh phá vào nhiều vùng thuộc phủ

Kinh Môn, bắt giết quan địa phương: “Các tướng ngụy Tây là Tiết độ sứ Nguyễn Văn Tuyết, cùng với lũ Chỉ huy Vân và Đô đốc Mạnh tụ họp dư đảng, lập con Đại vương Thiện là Long làm chúa, xưng theo niên hiệu Bảo Hưng, viện dẫn vài trăm thuyền biển của Thiên địa hội[12] đánh lấy được trấn Cổ Dũng, giết Trấn quan, róc xương, tràn vào 7 huyện phủ Kinh Môn[13].

Các hào mục trong nhiều địa phương toàn quốc cũng lần lượt nổi dậy, năm Giáp Tý (1804): Tháng 3, phiên thần Thái Nguyên là Ma Danh Cúc (tức Dương Đình Cúc) cùng các tướng cũ của Tây Sơn, chiêu tập người Cao Lan vào cướp Bắc Biên. Mùa thu tháng 7, hào mục huyện Võ Nhai là Tuần Diệu mưu đồ làm loạn[14]. Mùa đông, tháng 11, Tú Bích ở huyện Phượng Nhãn chiếm giữ 3 tổng huyện Lục Ngạn, lại liên kết với Tổng Thảo, người Trản Đồng, đánh phá trại Vạn Niên, Phao Sơn[15]. Các cuộc phản kháng tại miền núi phía Nam cũng đã làm cho quan quân triều Nguyễn phải đối phó chật vật. Phong trào nổi dậy chống lại ách áp bức của chính quyền triều Nguyễn được nổ ra từ rất sớm và được liên tục phát triển qua các triều Gia Long (1802 - 1819), Minh Mệnh (1820 - 1840), Thiệu Trị (1841 - 1847) và Tự Đức. Chỉ tính riêng năm 1808, triều Nguyễn đã phải đưa quân đội đi tiến hành hơn 30 cuộc “tiễu phạt”. Sênhô trong một bức thư đề ngày 12/5/1808 có viết: “Tôi lo rằng triều đại này sẽ không tồn tại được lâu dài. Hiện có rất nhiều đảng nổi loạn, nhất là ở Bắc kỳ. Các đảng này bị đàn áp tàn ác… nhưng chúng vẫn luôn tồn tại và đông đảo”. Phạm vi các cuộc nổi dậy trước hết nổ ra tại các vùng đồng bằng, miền núi phía Bắc, sau đó được lan rộng vào các tỉnh miền Trung và miền Nam. Các cuộc nổi dậy này có thể phân loại ra như sau:

      - Các cuộc nổi dậy của “cựu thần triều Lê” tức là các cuộc phản kháng do những viên quan từng đã làm quan dưới triều Lê hoặc con cháu các viên cựu thần hay những người “hoài Lê” (nhớ triều Lê) lấy danh nghĩa “phù Lê” để xướng suất khởi nghĩa chống lại triều Nguyễn.

       - Các cuộc nổi dậy của các tướng lĩnh, hoặc con cháu các viên quan đã từng phụng sự triều Tây Sơn, giương ngọn cờ Tây Sơn chống lại triều Nguyễn.

       - Các cuộc nổi dậy của các dân tộc vùng núi phía Bắc như khởi nghĩa Ma Danh Cúc, khởi nghĩa Quách Tất Thúc (1808-1819). 

Bên cạnh các cuộc nổi dậy như đã nêu trên, nạn cướp biển cũng thường xảy ra ở các địa phương duyên hải Bắc Thành, trong đó giặc biển Tề Ngôi là một mối đe dọa thường trực. Là quan Tổng trấn Bắc Thành, Nguyễn Văn Thành và các đồng liêu có trách nhiệm đảm bảo sự yên bình trong địa hạt, đảm bảo đời sống thường nhật của người dân.

Tháng 4 năm 1803, Tổng trấn Bắc Thành và các quan thuộc quyền dâng sớ rằng: “Bắc Thành từ cuối đời Lê tới đây, quyền cương đảo lộn, chính sự trễ tràng, bọn hào hữu vũ đoán trong làng xóm, dân phong ngày thêm điêu bạc, kiện tụng rối bời, trộm cướp tứ tung… chính trị phong tục càng ngày càng thêm thối nát. Nay thánh thượng ban đức thánh võ, có cả Bắc Hà, nếu không có một phen sửa sang dời đổi phong tục, thì tệ sẽ không nói xiết được. Bọn thần trộm nghĩ rằng nhà vua phát chính thi nhân, trước hết là ở việc chia ruộng cấp lộc. Điều chế có thi hành thì quan mới có thường lộc, dân mới có thường sản, sẽ không có cái lo về bọn hào hữu kiêm tính nữa. Xin trước hết hạ chiếu văn lấy việc đổi cũ theo mới mà dụ rằng vốn muốn lo tính sinh kế cho dân, lại lượng giảm bớt tô dung, để tỏ ân tín, khiến lòng dân mừng phục, rồi sau mới cử hành. Nay xin trình bày 3 điều:

  1. Sửa đúng sổ ruộng để cho tiện việc quân cấp. Phép chia ruộng từ đời Hán trở xuống đều muốn thi hành mà những nhà thế gia quen thói cho là không tiện, rồi việc phải thôi. Đến cuối đời Lê thì bọn cường hào kiêm tính mỗi ngày một quá. Nay xin phàm điền thổ công tư đều dồn cả về sổ dân, ai có tư điền thì để lại 3 phần 10, còn 7 phần giao cho xã dân quân cấp. Lại ở trong số quân cấp thì để lại 2 phần 10 chờ cấp  cho dân mới tục sau.
  2. Xét sổ đinh để rõ số dân. Phàm chính hộ, khách hộ, các hạng quân, dân, lão, tật, cùng, đào, đều phải biên vào sổ, ẩn lậu thì bị tội. Người dân lậu thì bị thu làm quan nô, hay bắt làm thuộc binh ở các nha, cho bộ Binh cấp bằng, đưa về dân để ghi vào sổ.
  3. Chọn người hiền tài để trao quan chức. Nhân tài khó được, cũng khó biết. Các quan chăn nuôi giáo hóa, không thể không chọn. Xin từ nay cho văn võ đều cử những người mình biết, quan nhất phẩm mỗi năm cử 5 người, quan nhị phẩm 4 người, quan tam phẩm 3 người, cho đến các trấn các phủ và các học quan cùng đều phải tiến cử. Ai không xứng chức thì người tiến cử bị phạt. Như thế thì ngoài dân gian không sót người hiền, trong triều đình không có chức trống, thiên hạ lo gì mà không trị được”.

Sớ ấy dâng lên. Vua Gia Long bảo bầy tôi rằng: “Cái việc quân điền, thực là điều cần trước tiên trong chính sách của vương giả, ngày nay làm thì thế nào ?” Bầy tôi đều nói: Chưa nên. Bèn hạ chiếu báo cho các thành thần rằng: “Bọn các ngươi trình bày, ta không phải cho là không phải. Duy ngày nay võ công mới định, việc nước đương bận, mà triều đình làm việc nên có thứ tự hoãn cấp. Ta sẽ bàn dần để lần lượt thi hành”[16]

Tháng Giêng năm Đinh Mão (1807), Nguyễn Văn Thành dâng sớ điều trần bốn việc : 1) Xin đặt Kinh diên, mỗi tháng cứ các ngày 2, 12, 22 thì giảng quan đến giảng sách ; các quan văn võ từ hàng Tam phẩm trở lên đều được nghe giảng. 2) Định luật mới, khiến quan lại có chỗ tuân theo, quân dân biết [điều phải] mà theo [điều trái] mà tránh. 3) Đặt sử quan để làm quốc sử. 4) Đặt Ngự sử đài để nghiêm phép triều đình. Vua khen phải và nhận. Bàn phép khoa cử. Sai Lễ bộ tham khảo điển cố, bàn định điều lệ quy thức tâu lên[17]. Những ý tưởng này của Nguyền Văn Thành là nền tảng để sau này vua Gia Long giao cho ông phụ trách việc sửa luật lệ và đứng đầu cơ quan biên soạn quốc sử của triều đình.

Tháng Giêng năm Tân Mùi (1811), vua Gia Long sai đình thần soạn định luật lệ, lấy Nguyễn Văn Thành sung chức Tổng tài. Dụ rằng: “Các bực đế vương trị nước, hình pháp đặt ra đã lâu. Hình pháp không đúng thì dân không chỗ mà nắm. Nay luật lệ chưa định, pháp ty không theo vào đâu được, thực không phải ý “Khâm tuất minh doãn” của trẫm. Bọn khanh nên hết lòng khảo xét những pháp lệnh điển lệ của triều, tham hợp với điều luật đời Hồng Đức và nước Đại Thanh, lấy bỏ cân nhắc mà làm thành sách. Trẫm sẽ tự sửa chữa cho đúng để ban hành”[18]. Tiếp đó, ông được bổ nhiệm là Tổng tài Quốc sử quán cùng với Vũ Trinh và một số Nho thần khác biên soạn quốc sử. Là một võ quan, trưởng thành chủ yếu bằng binh nghiệp nhưng Nguyễn Văn Thành là người có học thức, có thể xem là Nho tướng đương thời. Ông quan tâm đến sách vở, điển cố, rất chịu khó thu thập tàng thư. Ông đã từng dâng lên chúa Nguyễn Ánh và sau này là vua Gia Long các bộ sách cổ như Trinh quán chính yếu (thời Đường ở Trung Quốc); Thiên nam dư hạ (bộ sách thời Hồng Đức) hay dâng sách Võ bị chí và sách Tứ di loại chí, Đại học diễn nghĩa. Từ lý do này mà vua Gia Long chọn Nguyễn Văn Thành làm Tổng tài biên soạn luật lệ và Quốc sử cũng là điều dễ hiểu.

Tháng 8 năm 1812, sách luật làm xong, Vua Gia Long sai Nguyễn Văn Thành và Võ Trinh sửa định các điều luật lệ, phàm 398 điều. (Về hình danh và phàm lệ 45 điều, luật lại 27 điều, luật hộ 66 điều, luật lễ 26 điều, luật binh 58 điều, luật hình 166 điều, luật công 10 điều). Sách gồm 22 quyển. Vua Gia Long thân tự xét định và làm bài tựa[19]

Có thể khẳng định: đối với vương triều Nguyễn buổi đầu, Nguyễn Văn Thành có công lao rất lớn. Ông rất được vua Gia Long sủng ái và tin dùng. Tuy nhiên, vào những năm tháng cuối đời, ông lại mắc phải một số lỗi khó có thể dung thứ được, bắt đầu từ việc chọn đất an táng mẹ, việc nóng vội trong việc bàn lập Thái tử là Hoàng tôn Đán (con Hoàng tử Cảnh), trong khi đó vua Gia Long đang rất kỳ vọng ở vị hoàng tử thứ tư (Hoàng tử Đảm, tức Minh Mệnh sau này). Đỉnh điểm của bước ngoặt kết thúc sự nghiệp của Nguyễn Văn Thành là bài thơ “ngông” của người con trai Nguyễn Văn Thuyên được coi là phản nghịch để những viên quan lại đồng liêu vốn không ưa ông lấy đó thêu dệt thành bản án kết tội, chấm dứt sự nghiệp của ông. 

Đối với và Bắc Thành nói chung, Thăng Long - Hà Nội và Văn Miếu - Quốc Tử Giám nói riêng, Nguyễn Văn Thành cũng có nhiều đóng góp nổi bật.

Nội dung này sẽ được các bản tham luận khác phân tích, tìm hiểu và đánh giá.

 

[1] Quốc sử quán triều Nguyễn (2013), Đại Nam liệt truyện, tập 1-2, Nxb. Thuận Hóa, tr.421. Năm 1792, chúa Nguyễn Ánh cấp 5 người từ phu giữ đền thờ cho Cai cơ Nguyễn Văn Hiền (Đại Nam thực lục, tập Một, tr.298) và năm 1803 Nguyễn Văn Hiền được truy tặng Cai cơ và được cấp 9 người phu mộ, miễn cho dao dịch (Đại Nam thực lục, tập Một,Sđd, tr.575)

[2] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, tập Một, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr.283.

[3] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, Sđd, tr.491.

[4] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, Sđd, tr.664-665.

[5] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, Sđd, tr.1002.

[6] Theo thống kê của Chu Thiên trong “Mấy nhận xét nhỏ về những cuộc nông dân khởi nghĩa chống triều Nguyễn” trong Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 19 năm 1960 thì thời Gia Long có khoảng 70 cuộc nổi dậy.

[7] Ở Đàng Ngoài vẫn còn ảnh hưởng chế độ chính trị của triều Lê; ở miền Trung chịu nhiều ảnh hưởng của nhà Tây Sơn, còn Nam Bộ là vùng đất mới khai phá, cư dân là một phức hợp gồm nhiều sắc tộc.

[8] Ở Đàng Ngoài vẫn còn ảnh hưởng chế độ chính trị của triều Lê; ở miền Trung chịu nhiều ảnh hưởng của nhà Tây Sơn, còn Nam Bộ là vùng đất mới khai phá, cư dân là một phức hợp gồm nhiều sắc tộc.

[9] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, Sđd, tr.504. 3 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, Sđd, tr.528.

[10] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, Sđd, tr.529

[11] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, Sđd, tr.524. 3 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, Sđd, tr.507.

[12] Một hội đảng thành lập từ đời Khang Hy (1662-1772) nhà Thanh, mục đích lật đổ Mãn Thanh, khôi phục nhà Minh, hoạt động mãi đến đời Kiền (Càn) Long (1736-1795). Sau đó lại có Tam hợp hội, người ta cho là chi nhánh của Thiên địa hội.

[13] Phan Thúc Trực (2009), Quốc sử di biên, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.58.

[14] Phan Thúc Trực, Quốc sử di biên, Sđd, tr.70.

[15] Phan Thúc Trực, Quốc sử di biên, Sđd, tr.90-91.

[16] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, Sđd, tr.555-556.

[17] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, Sđd, tr.607.

[18] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, Sđd, tr.607.

[19] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, Sđd, tr.882.