LỜI GIỚI THIỆU

Website  honguyenquancong.com là kênh thông tin chính thức của dòng họ

Nguyễn Huế - Gia Định, là diễn đàn trao đổi giữa các chi họ Nguyễn trong

và ngoài nước. Ban quản trị Website mong muốn nhận được bài viết, hình

ảnh về các hoạt động của các chi họ để trang Web thêm phong phú, đa dạng.

Mọi thông tin xin gửi về địa chỉ Email: honguyenquancong@gmail.com hoặc

duyhung12258@gmail.com. 

TƯ LIỆU BỔ SUNG VỀ HỌ NGUYỄN QUẬN CÔNG, CHI HỌ ĐÌNH THÁI HƯNG

ĐI TÌM NGUỒN GỐC TỔ TIÊN

PGS-TS Nguyễn Minh Châu, Nguyên Viện trưởng Viện Cây ăn quả Miền Nam, Hậu duệ đời thứ Bảy của Quận công Nguyễn Văn Thành

Hồi tôi còn nhỏ, nghe bà Nội tôi kể Ngài đang được thờ bên Đình Thái Hưng (Phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1, Tp. HCM) là tổ tiên của gia đình mình. Nhưng bà Nội không nói Ngài tên là gì, nguyên quán Ngài ở đâu, bà Nội tôi chỉ kể được cho con cháu Ngài là tổ tiên của mình. Việc này đến nay, tháng 7 năm 2011, tôi mới rõ tại sao?

Việc tìm nguồn gốc của tôi bắt đầu từ việc khoảng mấy năm gần đây thôi. Từ năm 2005 hay 2006 gì đó, thì trên bàn thờ Ngài bên Đình Thái Hưng bỗng xuất hiện ảnh và tên Ngài là Nguyễn Văn Thành, với năm sinh, năm mất, mà trước đó không có?   

Đến tháng 4 năm 2011, vô tình tôi thấy một bài báo với tựa đề “Chén rượu rót đầu ghềnh của Tiền quân Nguyễn Văn Thành”, do Nguyễn Phúc Vinh Ba viết được đăng trên tờ Tạp chí Văn hóa Phật giáo. Tôi có đọc qua bài báo vì thấy có tên Nguyễn Văn Thành, mà tôi đã thấy trước đó ở Đình Thái Hưng. Qua bài báo, tôi biết Ngài làm quan rất lớn dưới thời vua Gia Long. Do bận công việc cơ quan, tôi không kịp để riêng tờ Tạp chí có bài báo mà tôi chú ý. Đến tháng 5, tôi đi tìm lại tờ báo cũ này, thì thật là mầu nhiệm tôi tìm ra được tờ báo này. Tôi nói mầu nhiệm khi tìm được bài báo, vì mỗi ngày tôi mua và được biếu rất nhiều loại báo chí, mà không nhớ rõ đã đọc được bài báo có tên Tiền quân Nguyễn Văn Thành ở tờ báo nào? Vậy mà, như một hỗ trợ của Ngài cho nỗ lực đi tìm nguồn cội của con cháu, tôi đã tìm ra được bài viết mong muốn. 

Sau đó, tôi lên mạng Internet đánh chữ “Tiền quân Nguyễn Văn Thành” thì thấy xuất hiện vài ba bài viết về cuộc đời của Ngài. Trong đó, có một bài do các anh bên Đức, là con cháu Ngài, đã đi tìm nguồn cội trước tôi viết, họ viết rất chi tiết về thân thế, sự nghiệp của Ngài, cho đến địa điểm mộ Ngài hiện ở Huế (có kèm theo hình ảnh). Đặc biệt, bài báo này cũng nói tới Đình thờ Ngài hiện có ở Đình Tân An, Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

Tôi báo cho anh Hai Rê biết việc này. Đồng thời, tôi quyết định sẽ đi Huế tìm đến thăm viếng đốt nhang cho Tổ tiên (như lời bà Nội tôi kể).

Tôi gọi nói chuyện với anh Hai Rê (Võ Văn Sang) và chị Hai (Nguyễn Thị Cẩm Nhung) nhiều lần, về mối liên hệ của ông bà chúng tôi với Ngài, anh Hai Rê là người anh con trai đầu của cô Tư (chị ruột của ba tôi). Anh Hai Rê lớn tuổi hơn tôi nhiều, nay anh đã 74 tuổi, còn tôi 57 tuổi (năm 2011). Anh Hai cho tôi biết, bà Nội tôi có kể anh nghe như sau: mình là dòng họ với Ngài, Ngài báo mộng với dân ở Tân An là hãy mang sắc phong Ngài đang được thờ phụng ở đó về cho con cháu của Ngài đang ở Cầu Quan (Tp. Sài Gòn) để thờ. Dân ở Tân An lên báo cho ông Cố tôi là Nguyễn Văn Bành đang ở Cầu Quan biết. Sau đó ông Cố tôi đi Tân An với con cháu để thỉnh Sắc thần về thờ và lập nên Đình Thái Hưng. Đó là lời kể của ông bà Nội tôi (Nguyễn Văn Báu) cho ba má tôi, cho anh Hai Rê và chị hai Nhung nghe, mấy anh em chúng tôi lúc đó còn nhỏ tuổi hơn chị Nhung và anh Hai Rê nhiều lắm, nên chuyện chỉ nghe kể lại từ Hai Rê, chị hai Nhung và ba má chúng tôi kể lại.

Đến tháng 7 năm 2011, tôi quyết định dùng phép năm để đi Huế tìm mộ tổ tiên (vì bài báo trên trang Web có ghi rõ địa chỉ mộ phần của Ông Nguyễn Văn Thành). Lúc đi, tôi chỉ nghĩ đến được mộ Ngài là cùng, ai dè kết quả đạt được còn hơn cả mong đợi: tôi đến được cả nhà thờ Ngài, chạm được tay mình vào bài vị của Ngài, và biết được nơi cúng giỗ Ngài hằng năm ở Huế. Điều này có được là nhờ khi tôi ra đến Huế, thì như một mầu nhiệm thứ hai xuất hiện, công việc rất thuận lợi. Vợ tôi đưa tôi đến gặp anh Phạm Tấn Hầu là bà con cô cậu ruột với vợ tôi, anh Hầu trước đây làm việc ở Đài Phát thanh Huế nên nắm được nhiều thông tin. Hơn nữa, anh Hầu đã đọc rất nhiều bài viết về cuộc đời của Tiền quân Nguyễn Văn Thành trên các Tạp chí chỉ có ở Huế như: Nghiên cứu và phát triển, Nghiên cứu Huế,... Anh có cho tôi xem những Tạp chí quí giá này.  

Nhờ anh Hầu có hẹn trước, khi chúng tôi đến nhà anh được một lúc, thì có anh Nguyễn Miên đến để gặp chúng tôi. Anh Nguyễn Miên là người cùng  làng Bác Vọng, Quảng Điền nơi có Tổ quán dòng họ Nguyễn, trong đó có nhánh của Ngài Nguyễn Văn Thành, còn anh Miên thì không trực hệ với Ngài như tôi. Anh Miên là giáo viên dạy lịch sử cấp 3 phổ thông nên những tài liệu viết về Ngài Nguyễn Văn Thành anh có nhiều. Hơn nữa, tuy không phải trực hệ với Ngài Nguyễn Văn Thành, nhưng anh Miên cũng họ Nguyễn và tổ tiên anh cũng ở làng Bác Vọng như Tiền quân Nguyễn Văn Thành. 

Bắt đầu câu chuyện với anh Miên, anh hỏi tôi quan hệ ra sao với Ngài, tôi kể về việc nghe bà Nội tôi kể Ngài là tổ tiên, mà sau này được biết là Tiền quân Nguyễn Văn Thành hiện đang được chôn ở Dạ Lê, huyện Hương Thủy (theo tin trên Web) nên tôi muốn được đi thăm mồ mả tổ tiên. Anh Miên cho biết chừng 3-4 năm nay, anh tiếp rất nhiều đoàn đến tìm hiểu và có nguyện vọng như tôi hôm nay (2011). Anh cho biết việc Ngài uống thuốc độc do người con có làm bài thơ chẳng qua là cái cớ, còn thực chất thì do vài lí do, trong đó có lí do vị trí xây lăng mộ Mẹ Ngài (chỗ có long mạch nên bị nghi ngờ có âm mưu đưa con cháu làm vua sau này) và mối bất hòa từ lâu giữa hai quan to nhất triều lúc đó là Ngài Trung quân Nguyễn Văn Thành và Tả quân Lê Văn Duyệt,….

Theo Đại Nam Liệt truyện, Tả quân Lê Văn Duyệt đã gài người vào làm việc cho nhà Tiền quân Nguyễn Văn Thành. Ở trong nhà Tiền quân lâu ngày, ông này tìm ra một bài thơ do con trai Tiền quân là Nguyễn Văn Thuyên làm gởi cho bạn bè ở Thanh Hóa, trong đó có một câu bị gièm pha là có ý phản nghịch, ông này mang bài thơ về cho Lê Văn Duyệt xem. Lê Văn Duyệt báo lên vua Gia Long. Vua Gia Long do đã từng được Ngài theo giúp khi còn đánh nhau với quân của Tây Sơn, nên vua cho rằng Thuyên còn trẻ nên thích lối thơ ngông nghênh, chưa đủ căn cứ để kết tội Ngài. Việc đang như thế, thì lại có việc người nhà của Ngài tên là Hữu xin qua nhà Lê Văn Duyệt phục vụ, được mấy hôm thì người này trốn đi mang theo dấu ấn của Lê Văn Duyệt. Tả quân Lệ Văn Duyệt cho truy nã bắt được tên này thì hắn khai là do Tiền quân sai vào thuốc Tả quân, nhưng hắn làm không được nên lấy ấn trốn đi. Được tin này, vua Gia Long cho chém tên Hữu, nhưng không nói gì đến Ngài cả.

Tả quân Lê Văn Duyệt rất ức việc này, nên cho điều tra kỹ Nguyễn Văn Thuyên (con trai Ngài) đang bị tạm giam trong tù vì bài thơ. Bị đánh quá, Thuyên đành phải khai nhận là có âm mưu tạo phản. Triều thần ủng hộ Lê Văn Duyệt xin vua nghiêm trị. Ức quá, một hôm sau khi bãi trào, Ngài mới níu áo vua kêu oan, Ngài nói với vua “thần theo bệ hạ từ nhỏ đến nay, không có tội gì, lẽ nào bệ hạ ngồi yên để họ bày chuyện hại thần”, vua Gia Long giật phắt áo bỏ đi, và ra lệnh từ nay Vua không cho Ngài vào gặp như trước nữa, và ra lệnh điều tra Thuyên một lần nữa. Nguyễn Văn Thuyên lại nhận tội có âm mưu phản nghịch. Do vậy, Vua ra lệnh giam Nguyễn Văn Thành và các con. Mấy hôm sau thì họp triều định án. Nghe án xong, Nguyễn Văn Thành nói với Hoàng Công Lý (bố vợ Vua Gia Long) “vua đã khiến tôi phải chết, nếu như tôi không chết thì tôi không phải là tôi trung”. Ngài viết một bức thư để lại cho vua rồi uống thuốc độc tự vẫn. Đến khi vua đọc được lời viết lại cho vua thì Ngài đã chết. Vua hối hận và thương tiếc cho người đã có công lao với mình nên sai tổ chức đám tang cho Ngài Nguyễn Văn Thành trọng thể, trả lại tất cả chức tước cũ và tha các con Ngài, cấp luôn đất đai để con cháu có phương tiện làm giỗ cho Ngài hàng năm. Nhận xét cá nhân tôi về việc này, đây là việc thường xảy ra ở trên cõi đời này. Không có gì là bất thường cả. Chính trị là thế đó, phải diệt nhau để giành địa vị và quyền lợi.

Sau khi kể những chi tiết này cho chúng tôi, anh Miên, anh Hầu đưa vợ chồng tôi đi thăm các nơi có liên quan đến Ngài.

1. Địa điểm thứ nhất, nhà thờ Nguyễn tộc (ở thôn Bác Vọng Tây, rất gần Huế).

Anh Hầu, anh Miên đưa vợ chồng tôi đi thăm điểm thứ nhất là Tổ quán họ Nguyễn ở thôn Bác Vọng Tây, ở Tứ Hạ, cầu Tứ Phú, xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, Tp. Huế. Một vài người lớn tuổi ở trong làng, khi nghe tôi về để tìm hiểu nguồn gốc đã ra tổ quán họ Nguyễn để gặp tôi. Họ cho biết, do hoàn cảnh của Ngài như thế nên con cháu của Ngài ở làng Bác Vọng lúc đó đã đốt gia phả và đi tứ tán khắp nơi, thậm chí có người nay đã đổi sang họ Trần. Cho nên, theo các cụ ở Bác Vọng thì ngày nay nếu gặp lại nhau, thì họ chỉ gọi nhau là anh tôi, chứ không thể phân biệt được ai vai lớn, ai vai nhỏ, cụ thể như tôi và anh Thuận (sẽ gặp ở nhà thờ Nguyễn Văn Thành).

Anh Miên cho biết họ Nguyễn làng Bác Vọng này đã xuất hiện trước khi chúa Nguyễn Hoàng vào Nam trốn Trịnh Kiểm (1558), anh Miên nói có thể từ đời Trần Nhân Tôn không chừng?. Thay mặt ông bà, tổ tiên tôi thắp nhang ở tổ quán họ Nguyễn, là nguyên quán của Ngài Nguyễn Văn Thành (lời vua Gia Long).  

2.Thăm địa điểm thứ hai là mộ của mẹ Ngài: Cụ cố tổ Trần Thị Đàn.

Điểm thứ hai là mộ mẹ Ngài, mộ do Ngài xây cho mẹ rất to và rất chắc chắn, mộ nằm trên ngọn đồi phía bên phải trên đường đi vào gần tới làng Khải Định. Mộ bị nứt, nhưng là người khoa học, dù là khoa học xã hội, anh Miên cho biết đây là việc bình thường không nên dị đoan, vì mộ mẹ Ngài Nguyễn Văn Thành nằm trên đường nứt kéo dài nên phải bị nứt. Tuy vậy, chất liệu xây mộ rất chắc chắn, ngoài vết nứt đó, mộ còn rất nguyên vẹn. Thay mặt tổ tiên, tôi có mua trái cây và đốt nhang ở mộ mẹ Ngài. Sau đó, chúng tôi ăn trưa ở quán Ngọc Linh, đường Khải Định, nằm xéo một tí ở phía bên kia đường, so với vị trí của mộ mẹ Ngài.

3.Thăm địa điểm thứ ba, thăm từ đường dòng họ Nguyễn Văn Thành, ở nhà anh Thuận, là cháu trực hệ của Ngài.

Sau khi ăn trưa, anh Miên đưa chúng tôi đến nhà anh Thuận là nơi có lập bàn thờ Ngài, có bài vị của Ngài, có Sắc Gia ân của vua Tự Đức cho Ngài.

Nơi đây, tôi thấy phía sau bàn thờ Phật Thích Ca Như Lai là bàn thờ Ngài Nguyễn Văn Thành, bên phải bàn thờ Ngài, là bàn thờ ông Chơn là cháu nội của Ngài, ông Nguyễn Văn Chơn, người nhận Sắc phong Gia ân cho Ngài do vua Tự Đức ký, và bên trái bàn thờ Ngài là bàn thờ ông bà, cha mẹ của anh Thuận.

Nhà thờ tuy không to nhưng đẹp, uy nghiêm. Tôi được anh Thuận cho coi bài vị của Ngài và một trong số vợ Ngài, bà Võ Thị Hòa. Bên cạnh bàn thờ Ngài, anh Thuận có treo một khung hình photo ghi như trên bia mộ Ngài năm 1817, khi Ngài mất như sau: ngày mất 11/5 AL, năm 1817, nguyên quán của Ngài, và ghi Ngài có 13 bà vợ, 14 con trai, 5 con gái. Anh Thuận còn lấy bài vị của Ngài và vợ Ngài ra cho tôi xem. Anh Thuận cho biết anh đang giữ sắc phong Gia ân của vua Tự Đức, để xác nhận Ngài là một công thần của triều Nguyễn, đồng thời vua Tự Đức đã ban lại chức tước cho cháu nội Ngài lúc đó là ông Nguyễn Văn Chơn.

Sau này, tượng của Ngài và Tả quân Lê Văn Duyệt được vua Tự Đức cho xây miếu thờ ở Trung Hưng Công Thần Miếu ở Đại Nội Huế còn đến ngày nay.

Nhà anh Thuận ở số 80/11 đường Nguyễn Lộ Trạch, phường Xuân Phú,  thành phố Huế, số điện thoại 0905235948, nhà riêng: 0543811170. Anh Thuận có mời tôi viết vào Sổ Viếng từ đường “Nguyễn Quận Công Từ”, tôi viết là con rất may mắn tìm lại được nguồn gốc, xin cảm ơn anh Thuận là hậu duệ của Ngài đã trông nom mộ và lo việc thờ cúng Ngài rất trang nghiêm.

Sau đó, anh Miên, anh Hầu, anh Thuận cùng với hai vợ chồng tôi ra thăm lăng mộ Ngài Nguyễn Văn Thành cũng không xa lắm từ nhà anh Thuận.

4.Thăm địa điểm thứ tư viếng mộ Ngài được cải táng lại năm 2005, ở vùng Dạ Lê, thuộc xã Thủy Dương, huyện Hương Thủy. Đây là mộ mới được hoàn tất năm 2005 sau khi mộ cũ (ở gần đó, trên đồi, theo anh Miên, thì mộ cũ của Ngài rất to) đã bị giải tỏa để làm Trường Đào tạo lái xe. Mộ mới to và rất đẹp. Có một điều rất lạ, là cả mộ mẹ Ngài và mộ Ngài đều có điểm nhấn cho các cuộc thăm viếng, là đều có bảng Logo của ngành Kiểm lâm phía trước như để làm dấu cho con cháu lâu lâu mới về thăm một lần dễ tìm. Mộ mẹ Ngài thì nằm tay phải đối diện với Logo Kiểm lâm trên đường đi tới làng Khải Định, còn mộ của Ngài thì nằm phía tay trái trên đường đến vùng Dạ Lê nơi có dấu Logo kiểm lâm thì quẹo vô phía trái như đã nói trên.  Vợ chồng tôi bày trái cây, và đốt nhang cúng van vái Ngài, tôi thưa “Con là Nguyễn Minh Châu có nghe bà Nội kể…, hôm nay con có phước được đến nơi này để thắp nhang cho Ngài, con xin thay mặt ông bà, cha mẹ, xin Ngài hiển linh cho con cháu con sống được mạnh khỏe, gặp nhiều may mắn,...

Sau khi thắp nhang, tôi thấy tấm bia, theo lời các anh Miên và anh Thuận vốn ở mộ cũ trước khi bị giải tỏa, đã được dời qua đây và lập lại ở ngôi mộ mới này, tấm bia ghi rõ lý lịch Ngài như đã nói trên. Tấm bia này rất đặc biệt, vì không những có ghi về Ngài mà còn số bà vợ (13) và số con (19 con gồm 14 trai, 5 gái). Có thể ông bà của Châu là con cháu của Ngài vì là con cháu gần nên mới được Ngài về báo mộng cho dân làng Tân An đem trả sắc thần của Ngài về lại cho con cháu ở Cầu Quan thờ phụng.

Sau khi thăm viếng xong mộ Ngài thì đã hơn 4 giờ chiều, xe đưa các anh về. Mọi người đều mệt, nhưng tôi thì quá mừng vì đã tìm được nguyên quán dòng họ ở làng Bác Vọng, Quảng Điền, Huế và đã đến được 4 nơi liên quan với tổ tiên để đốt nhang.

Về lại Mỹ Tho, được mấy hôm sau, nhân 2 ngày nghỉ cuối tuần, 23 - 24/7/2011 tôi viết lại những điều đã thấy, nghe chỗ bà con và con cháu biết để tiếp tục công việc thăm viếng chăm sóc mồ mả ông bà mà tôi đã có phúc tìm ra.

Cuối cùng, tôi xin kính dâng lên ông bà tổ tiên, đây là phúc mà ông bà đã phù hộ cho con làm được. Tôi xin ghi lại lý lịch dòng họ Nguyễn Quận Công, nhánh Đình Thái Hưng, phường Phạm Ngũ Lão, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh như sau:

 

LÝ GIẢI SƠ ĐỒ TỘC NGUYỄN,

CHI TIẾT NHÁNH NGÀI NGUYỄN VĂN THÀNH

- Đời thứ 1, Ngài Nguyễn Văn Thành, sinh năm 1758, thọ 60 tuổi. 

- Đời thứ 2, Ngài có nhiều con, do có tới 13 bà vợ, trong đó có Nguyễn Văn Thuyên, Nguyễn Văn Thâm,…

Theo em Duy ở Cần Giuộc thì dòng ở Đình Thái Hưng là con cháu của Ông Nguyễn Văn Hàm. Em Duy cho biết có thể gặp ông Nguyễn Văn Thành và ông Nguyễn Văn Hàm (là 1 trong 5 người con trai của ông Nguyễn Văn Thành với bà Võ Thị Phú xem trên bia mộ của ông Nguyễn Văn Thành).

- Đời thứ 3, Nguyễn Văn Ngươn là ông Sơ của Nguyễn Minh Châu, là cháu nội Ngài. Ông Ngươn còn có thên khác là Nguyễn Văn Chánh (theo hồ sơ em tôi đang cất giữ).

 Ông Nguyễn Văn Ngươn có vợ là bà Ngô Thị Sắc, hiện nay còn mộ bà ở xã Bình Nhựt, Bến Lức, Long An (gần chỗ ở dòng em Duy).

- Đời thứ 4 là ông Cố của Châu, tên là Nguyễn Văn Bành, sinh năm 1858 (tự khai). Nghe anh Hai Rê nói thì mộ ông Cố nằm ở Sài Gòn, đã bị giải tỏa lâu rồi, lúc đó con cháu không hay để cải táng.

Nhận xét của tôi: ông cố Bành phải là người rất khá giả mới xây được nhà 117 Yersin rất to, đến ba gian vào năm 1910 ( lúc đó ông Cố tôi 51 tuổi) và mua đất để xây Đình Thái Hưng rất lớn vào năm 1920 (lúc xây Đình Thái Hưng ông Cố tôi 62 tuổi).

 Nhận xét tiếp theo, Ông Cố mua đất lập Đình Thái Hưng, như vậy ông đã biết đến tổ tiên, vậy tại sao ông Cố chỉ để lại cho con cháu tên cha của ông là Nguyễn Văn Ngươn, mà không để lại tên ông Nội của mình? Thêm một minh chứng cho việc có thể ông Nội của ông Cố có liên quan đến Ông Nguyễn Văn Thành?

- Đời thứ 5 là ông Nội của Châu, tên là Nguyễn Văn Báu, sinh năm 1875, làm quan Tri phủ, bà Nội là Đặng Thị Điệu quê ở xã Tăng Nhơn Phú, quận Thủ Đức, Tp. HCM, thuộc dòng Đặng Trung nay còn ở Tăng Nhơn Phú Quận 9, rất nhiều người.

- Đời thứ 6 là cha tôi, ông Nguyễn Minh Cảnh, sinh năm 1922. Mẹ tôi là Nguyễn Ngọc Nữ, quê ở xã Bình Khánh, Nhà Bè, Tp. HCM (và có cô và bác tôi).

- Đời thứ 7 là Nguyễn Minh Châu, sinh năm 1954, vợ tôi là Lê Thị Thu Hồng, người Huế, gốc ở An Cựu (và các chị, các em).

GHI CHÚ:

  • Ông nội Nguyễn Văn Báu không nói Ngài tên là gì, chỉ nói Ông thờ bên Đình Thái Hưng là ông của mình, mình là dòng họ với Ngài.
  • Do biết Đình thờ ai, nên ông Sơ là Nguyễn Văn Bành bỏ tiền ra mua đất xây Đình Thái Hưng (có văn bản của ông Nội gởi Ban trị sự Đình Thái Hưng năm 1960 nói “cha tôi đã hiến đất xây dựng”.
  •  Theo tôi (Nguyễn Minh Châu) tuy ông Nội không nói rõ Ngài là Nguyễn Văn Thành, nhưng có nói mình là dòng họ với Ngài cho anh Hai Rê và chị Hai Nhung.
  • Còn ông Hàm có là ông của mình không thì không rõ vì ông Sơ Nguyễn Văn Ngươn không có nói tên cha của mình. Việc này có thể do ông Hàm có liên quan đến loạn Lê Văn Khôi, nên ông Ngươn không nói cha ông là ai. Nhưng do ông kể lại cho con cháu Nguyễn Văn Bành và dòng họ nên ông Bành mới mua đất lập Đình để thờ Ngài.
  • Sau năm 1975, người ta mới đề tên Ngài là Nguyễn Văn Thành, chứ không phải con cháu đề tên.
  • Tuy nhiên tôi (Nguyễn Minh Châu) tin Ngài tên là Nguyễn Văn Thành, vì Ngài rất linh thiêng, khi bá tánh đề tên Ngài thì mọi sự đều an lành cho Ban trị sự mới, những người dám làm việc đưa ảnh và tên Ngài lên thờ ở Đình (trước đó, chỉ có bài vị mà bài vị không có để tên là thờ ai).

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nguyễn Phúc Vinh Ba, 4/2011. Chén rượu rót đầu ghềnh của Tiền quân Nguyễn Văn Thành. Tạp chí Văn Hoá Phật giáo.

Nguyễn Văn Thành. Bách khoa toàn thư Wikipedia.

Thi Long, 2003. Nhà Nguyễn chín chúa, mười ba vua. NXB Đà Nẵng.

Phạm Khắc Hòe, 2010. Kể chuyện vua quan nhà Nguyễn. NXB Thuận Hóa.

Viện Sử học, Viện KHXH Việt Nam, 1993. Đại Nam liệt truyện, NXB Thuận Hoá, Huế. (Đây là tài liệu chính thống sử học, anh Miên photo cho tôi).

Lời kể của anh Nguyễn Văn Thuận, cháu đời thứ 7 của Ngài, cho tôi chi tiết ghi trên tấm bia đá đât ở mộ Ngài hiện nay và bản Sắc gia ân của vua Tự Đức.

Lời kể của anh Hai Rê, là anh em cô cậu với tôi, người còn nhớ rõ việc bà Nội tôi kể, anh lớn hơn tôi 17 tuổi, nay 74 tuổi, nhưng anh còn nhớ rất rõ chuyện 50 - 60 năm trước. Anh nói sắc thần để ở nhà mình là do mình là con cháu của Ngài, và do vậy ông Cố Nguyễn Văn Bành mới lập Đình để thờ Ngài. Lúc đó (hồi đó), không ai dám gọi Ngài bằng tên, cho nên bà Nội chỉ kể con cháu mình là dòng họ của Ngài.

Lời kể của chị Hai (Nhung), và Bé Năm, con chị thứ Hai của tôi. Chị là người ở với ông bà Nội tôi lúc từ nhỏ cho đến lớn. Chị nghe bà Nội kể ông Cố Bành đi rước sắc thần về thờ ở nhà 117 B trong nhiều năm, sau đó mới đem Sắc ra thờ ở nhà bác Năm của tôi là Nguyễn Quyền Báu. Chị tin Ngài bên Đình là ông Nguyễn Văn Thành khi về Việt Nam năm 2012.

Tờ hiến đất xây Đình do ông Nội viết năm 1962 gởi cho Ban Quí Tế Đình Thái Hưng chứng tỏ Ngài là ông của dòng họ thì ông Bành mới hiến đất xây Đình Thái Hưng.

Tờ ông Nội ghi lại ngày đám giỗ ông bà Sơ Ngươn, ông bà Cố Bành (tờ này do anh Hai Rê đưa Châu ghi lại).