LỜI GIỚI THIỆU

Website  honguyenquancong.com là kênh thông tin chính thức của dòng họ

Nguyễn Huế - Gia Định, là diễn đàn trao đổi giữa các chi họ Nguyễn trong

và ngoài nước. Ban quản trị Website mong muốn nhận được bài viết, hình

ảnh về các hoạt động của các chi họ để trang Web thêm phong phú, đa dạng.

Mọi thông tin xin gửi về địa chỉ Email: honguyenquancong@gmail.com hoặc

duyhung12258@gmail.com. 

TỔNG TRẤN BẮC THÀNH NGUYỄN VĂN THÀNH DANH XỨNG VỚI THỰC

Tiến sĩ Lê Thùy Linh - Tham luận tại Hội thảo khoa học: "Tổng Trấn Nguyễn Văn Thành với Thăng Long - Hà Nội"\

1. Vài nét về Nguyễn Văn Thành và chức quan Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành (1758 - 1817) có gốc gác tiên tổ là người Quảng

Điền, phủ Thừa Thiên Huế, từ đời tằng tổ đã di cư vào Gia Định. Cha là Cai đội Nguyễn Văn Hiền[1] nên Nguyễn Văn Thành  sớm theo cha ứng mộ chúa Nguyễn Phúc Thuần chống Tây Sơn từ năm Quý Tỵ (1773), lập nhiều công trạng. Ông phò chúa Nguyễn Ánh cho đến khi mất (năm Đinh Sửu, 1817), là “danh tướng vào hàng số một của Nguyễn Ánh, được Nguyễn Ánh rất tin cậy, vị nể[2]. Tháng 7 năm Tân Dậu (1801), vua Gia Long phong cho Nguyễn Văn Thành làm Khâm sai Chưởng Tiền quân Bình Tây Đại tướng quân, tước Quận công.

Năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Ánh đánh bại quân Tây Sơn, từ tháng 5 đổi niên hiệu Gia Long. Tháng 7 cùng năm, nhà Nguyễn lấy được Bắc Thành. Vua Gia Long nhận định: “Bắc Thành mới định, dân vật đổi mới, Thăng Long lại là trọng địa của Bắc Thành, nên được trọng thần để trấn thủ”. Khi đó Nguyễn Văn Thành đang trấn thủ Bình Định, vua “bèn cho Nguyễn Huỳnh Đức lưu trấn Bình Định, triệu Thành về nơi hành tại”. Chỉ 2 tháng sau, khi vua sắp hồi loan (quay xe về kinh), vua Gia Long đã giao cho Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn Bắc Thành. Đại Nam thực lục chép:

Tháng 9 năm Nhâm Tuất (1802): lấy Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn Bắc Thành, ban cho sắc ấn, 11 trấn nội, ngoại đều lệ thuộc. Phàm những cắt bãi quan lại, xử quyết kiện tụng đều được tùy mà làm rồi sau mới tâu. Lại đặt 3 tào: Hộ, Binh, Hình ở Bắc Thành. Hộ bộ Nguyễn Văn Khiêm, Binh bộ Đặng Trần Thường, Hình bộ Phạm Như Đăng lãnh các tào ấy, theo quan Tổng trấn để xét biện công việc”. Nguyễn Văn Thành dâng biểu xin từ, vua xuống tờ chiếu khen mà không cho từ và dặn dò: “Việc Bắc Thành đều giao cho ngươi cả”. Nguyễn Văn Thành lạy nhận mệnh[3]. Như vậy, trước khi đảm nhiệm trọng trách là Tổng trấn Bắc Thành, Nguyễn Văn Thành đang làm Khâm sai Chưởng Tiền quân Bình Tây Đại tướng quân, tước Quận công, quản trấn Bình Định, từng phụng sự hai đời chúa Nguyễn, lập nhiều công trạng trên chiến trường, tỏ rõ bản lĩnh và lòng trung thành của một bề tôi theo họ Nguyễn từ buổi đầu nên vua Gia Long đã tin cậy trao trọng trách quản lý Bắc Thành cho ông.

Tổng trấn là người đứng đầu coi giữ một địa phương, chức danh này từng xuất hiện dưới thời Lê. Sách Việt sử thông giám cương mục chép: Tháng 3 năm Tân Dậu, Lê Anh Tông, niên hiệu Chính Trị thứ 4 (1561), Tổng trấn Lê Trọng cùng Thủ tướng Vũ Sư Thước và Lại Thế Khanh đánh nhau với Mạc Kính Điển. Lúc này, Tổng trấn là chức quan trấn giữ địa phương trấn Thanh Hoa, không thấy ghi trong quan chế Hồng Đức. Đến năm Nhâm Tuất (1802), Gia Long đặt chức Tổng trấn Bắc Thành và Gia Định thành. Dưới Tổng trấn có Phó Tổng trấn, Cai bạ, Cai án, Tri bạ. Vua Gia Long cho lập 6 tào là Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công và 2 ty là Xá sai, Tướng thần lại (năm 1804 đổi thành ty Tả thừa và Hữu thừa, mỗi thừa ty chia làm 3 phòng gồm Lại, Binh, Hình thuộc ty Tả thừa; phòng Hộ, Lễ, Công thuộc ty Hữu thừa)[4].

Bắc Thành đầu thời Nguyễn có 11 trấn, trong đó có 5 nội trấn (Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Dương) và 6 ngoại trấn (Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Cao Bằng, Yên Quảng, Hưng Hóa)[5], gồm toàn bộ vùng đất từ Lạng Sơn đến Ninh Bình. Không chỉ tổ chức, quản lý một khu vực rộng lớn, đa dạng về tộc người và văn hóa vùng miền, Tổng trấn Bắc Thành còn phải hiểu về vùng đất Bắc Hà và tâm lý “hoài Lê” của cựu thần nhà Lê và nhân dân Bắc Hà lúc bấy giờ - những vấn đề mà vua Gia Long rất quan tâm và thận trọng khi tiến hành xây dựng bộ máy chính quyền buổi đầu[6]. Bởi vậy, “vào đầu thời Nguyễn, chức Tổng trấn Bắc Thành có quyền hành rất lớn, nhiều nhà sử học trong và ngoài nước ví chức vụ ấy như một Phó vương... Qua đó, chúng ta thấy vua Gia Long tin cậy Nguyễn Văn Thành như thế nào khi trao chức Tổng trấn Bắc Thành cho ông. Và cũng qua đó, ta thấy Nguyễn Văn Thành phải có tài, đức như thế nào mới có thể lọt vào “mắt xanh” của vị vua sáng lập vương triều Nguyễn[7]. Ông làm Tổng trấn Bắc Thành từ tháng 9 năm Nhâm Tuất (10/1802) đến tháng Giêng năm Canh Ngọ (2/1810). Vào tháng Giêng, Nguyễn Văn Thành có tang mẹ, xin đưa quan tài về táng ở quê, vua Gia Long chấp thuận, đồng thời ông xin về quê 3 năm để tang nhưng vua Gia Long có chiếu khen mà không đồng ý cho ông nghỉ. Do đó, từ tháng 2 năm Canh Ngọ (1810), ông được vua Gia Long rút về kinh đô Phú Xuân (Huế) làm Tổng tài. Trong 8 năm ở cương vị Tổng trấn Bắc Thành, đóng góp của ông đối với Bắc Thành thể hiện trên nhiều lĩnh vực, đem lại lợi ích to lớn cho nhà nước và nhân dân.

          2. Những đóng góp của Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành *Trong lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao

Năm Quý Hợi (1803), khi vừa được giao làm Tổng trấn Bắc Thành, Nguyễn Văn Thành đã bắt tay vào sắp đặt công việc. Vua Gia Long ra Bắc tuần đến thành Thăng Long, Nguyễn Văn Thành vâng mệnh đi kinh lược Hải Dương, Quảng Yên, mưu đặt việc quân, xem hình thể lỵ sở, các đồn. 

Ông trực tiếp tham gia vào sự kiện chính trị, ngoại giao quan trọng của đất nước. Tháng Giêng năm Giáp Tý (1804), nhà Thanh sai Án sát tỉnh Quảng Tây là Tề Bố Sâm đem cáo sắc và quốc ấn sang phong cho vua Gia Long. Lễ tuyên phong được tổ chức tại điện Kính Thiên. Vua Gia Long sai Chưởng Tiền quân kiêm Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành sung việc thụ sắc, Chưởng thần Võ quân Phạm Văn Nhân sung việc thụ ấn[8]

Trong thời kỳ ông làm Tổng trấn Bắc Thành, ông ý thức cao và có nhiều hành động bảo vệ vùng biên giới phía bắc của tổ quốc. Đại Nam thực lục chép: Tháng 2 năm Quý Hợi (1803), người Thiều Châu nước Thanh là Lý Hòa Nguyên rồi họp bọn đánh cướp mỏ Phúc Tinh ở Thái Nguyên. Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành đem quân đánh dẹp. Lý Hòa Nguyên trốn. Bắt được đồ đảng là Trâu Tôn, Lý A Tứ và Trần A Nhị đều chém cả[9]. Tháng 9 năm Quý Hợi (1803), Tổng trấn Nguyễn Văn Thành sai Chưởng dinh Nguyễn Đình Đắc, Đô thống chế Phan Tiến Hoàng, Tán lý kiêm Binh bộ Đặng Trần

Thường đem quân đi đánh giặc Tề Ngôi. Giặc Tề Ngôi từ biên giới Việt - Trung tràn sang, cướp bóc dân các địa phương thuộc Yên Quảng như Tiên Yên, Vân Đồn, có khi chúng theo sông Bạch Đằng tiến vào tận huyện Kinh Môn. Vua Gia Long sai Nguyễn Văn Trương lãnh quân thủy bộ hợp với quân của Nguyễn Văn Thành đánh bại Tề Ngôi, buộc quân giặc phải chạy ra ngoài biển Đông[10]. Vấn đề vùng đất giáp biên giới hai châu Vị Xuyên và Thủy Vĩ đã nảy sinh tranh chấp, mâu thuẫn từ trước, tháng 7 năm Giáp Tý (1804), Tổng trấn Nguyễn Văn Thành dâng sớ về triều đình kiến nghị: “Châu Vị Xuyên ở Tuyên Quang là đất trọng yếu ở biên cương, xin cho Nguyễn Hựu Trân làm Cai đội, Trần Đăng Viên làm Bình luận, đều đem thủ hạ lập làm hai đội Am Sơn để đóng giữ đất ấy”. Vua y cho[11]. Tháng 9 năm Giáp Tý (1804), trước sự việc giặc ở Thiều Châu (Trung Quốc) do Mã Sĩ Anh cầm đầu xâm chiếm châu Hưng Hóa, châu Văn Bàn, Tổng trấn Nguyễn Văn Thành kiến nghị biện pháp phòng thủ: “Hai huyện Mỹ Lương và Thạch Thất trấn Sơn Tây, hai huyện Phượng Nhãn và Lục Ngạn trấn Kinh Bắc và bảo Bảo Thắng trấn Hưng Hóa là những nơi yếu hại, xin chia quân phòng thủ để giữ yên”. Vua y cho[12]. Những sự kiện trên không chỉ cho thấy mối quan tâm của ông đối với vùng biên giới phía Bắc mà còn thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của một nhà quân sự về những vị trí hiểm yếu chiến lược của Bắc Thành.

Năm Bính Dần (1806), nhân việc Tổng đốc Vân Quý nhà Thanh gửi thư về việc 10 châu thuộc phủ Yên Tây, trấn Hưng Hóa thuộc về Trung Quốc từ cuối đời Lê Trung Hưng, theo mệnh lệnh của vua Gia Long, Nguyễn Văn Thành tiến hành tra rõ địa giới trấn Hưng Hóa và sự tích 6 mãnh (Mãnh Lại, Mãnh Thích, Mãnh Đinh, Mãnh Thoa, Mãnh Bạng, Mãnh Lộng), cho hỏi các châu trưởng ở Hưng Hóa để nắm được tình hình thực tế từ trước đến giờ của các châu, mường. Ông dâng sớ xin vua Gia Long “trước hết viết thư trả lời cho Tổng đốc Vân Quý, tách bạch rõ ràng cương giới của 2 châu, yêu cầu sai người sang hội đồng chia vạch lại, để xem ý họ ra sao, rồi sau đó nói đến chuyện cũ về cương giới 6 châu. Như thế thì Tổng đốc Vân Quý hẳn là lo ta hoặc có sinh việc ở biên giới, không thể không trù liệu, dân 2 châu do đó mà cũng có thể khỏi phải thuế má nặng nề”. Tuy nhiên, vua Gia Long cho rằng “nước đương lúc bắt đầu khai sáng, chưa rỗi mà liệu công việc biên cương. Việc để đấy không trả lời[13]. Tác giả Lê Đình Sỹ khẳng định: “Có thể khẳng định trong thời kỳ giữ trọng trách làm Tổng trấn Bắc Thành, Nguyễn Văn Thành rất có ý thức củng cố việc phòng thủ tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Ông kiên quyết trừng trị số thổ phỉ từ Trung Quốc tràn sang quấy phá, cướp bóc các trấn sát vùng biên giới phía Bắc, bảo vệ đời sống yên bình cho người dân biên giới[14]

Để hoàn thiện bộ máy chính trị, vấn đề quan trọng là nhân lực, là quan chức. Năm Canh Ngọ (1810), Nguyễn Văn Thành dâng sớ tâu 3 điều, trong đó có 2 điều về quan lại: 1. Là xin lại phép thưởng phạt các quan phủ huyện, ai có công thì gia cấp, thêm bổng, ai có tội thì giáng cấp phạt bổng cho biết khuyên răn; 2. Là xác định 3 năm làm 1 khóa, quan phủ huyện 3 năm không có lỗi điệu bổ chức khác. Đến 6 năm mới xét giỏi kém định truất nhắc[15]

*Trong lĩnh vực kinh tế

Ngay khi vừa đảm nhận trọng trách Tổng trấn Bắc Thành, tháng 12 năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Văn Thành đã dâng sớ tâu: “Bắc Hà trải qua loạn lạc, dân nhiều người xiêu tán. Binh có thiếu ngạch thì quản quan thường thường bắt làng lân cận cấp thế. Vì thế ruộng đất của dân xiêu tán bị làng lân cận chiếm lấy để bù lại. Xin sửa đổi thói tệ ấy”. Vua Gia Long chấp thuận và hạ lệnh cho các địa phương từ Nghệ An ra Bắc: phàm ruộng đất của dân xiêu tán, quan sở tại phải lập giới hạn rõ ràng, chia cấp cho quan quân cày cấy mà được tha thuế, làng lân cận không được cày cấy;… Binh thiếu ngạch đã điền thế thì tha về, chưa điền thế thì được miễn, để không có cái khổ chịu ngạch nặng hơn; Đợi khi dân xiêu tán trở về thì đem những ruộng đất ấy cấp trả và thu thuế như lệ thường[16]. Chính sách của ông đưa ra đã góp phần chiêu tập dân xiêu tán về quê cũ để ổn định sản xuất, từ đó khôi phục nền sản xuất nông nghiệp của Bắc Thành. 

Cùng với vấn đề ruộng đất và dân xiêu tán, ông quan tâm đến thủy lợi - một trong những điều kiện căn cốt của nghề nông. Tháng 5 năm Quý Hợi (1803), ông dâng tấu: “Thế nước sông Nhị Hà rất mạnh, đê bên tả, bên hữu ven sông thuộc Sơn Tây, Kinh Bắc, Sơn Nam Thượng, Hạ nhiều chỗ vỡ lở, xin thuê dân sửa đắp đê chống lụt mùa thu. Lại thủy đạo các trấn nhiều nơi ứ tắc, xin hạ lệnh cho trấn thần tùy thế khơi vét[17]. Tháng 3 năm Giáp Tý (1804), Nguyễn Văn Thành thuê dân đắp được 8 đoạn đê mới ở trấn Sơn Tây, Kinh Bắc, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, tổng chiều dài 8 đoạn đê là 1.728 trượng, chi tiền hơn 89.000 quan[18]. Tháng 6 năm Ất Sửu (1805), Nguyễn Văn Thành tâu về triều đình: gần đến mùa mưa lụt, sợ đây điều thẩm lậu, xin lấy dân sửa đắp và dự trữ đống đất và tre gỗ ở trên mặt đê để phòng bị, vua y theo lời5. Tháng 2 năm Bính Dần (1806) có 12 đoạn đê được đắp mới tại các trấn Sơn Tây, Sơn Nam Thượng với tổng chiều dài hơn 2.366 trượng, chi tiền hơn 95.200 quan. Tháng 12 năm Đinh Mão (1807), Nguyễn Văn Thành thuê dân đắp 10 đoạn đê mới ở trấn Sơn Nam Thượng Sơn Nam Hạ, Kinh Bắc, có chiều dài tổng cộng hơn 1.708 trượng, chi tiền hơn 84.000 quan. Tháng 3 năm Kỷ Tỵ (1809) có 3 đoạn đê mới được đắp ở trấn Sơn Tây, Kinh Bắc và Sơn

Nam Thượng với tổng chiều dài gần 2.500 trượng và tu bổ 2 đoạn đê cũ ở Sơn Nam Thượng và huyện Duy Tiên dài hơn 143 trượng, chi tiền là 87.000 quan[19]. Như vậy, có thể thấy Nguyễn Văn Thành sao sát công việc đê điều nên việc xây đắp, tu bổ đê ở Bắc Thành được diễn ra liên tục trong các năm từ năm Quý Hợi (1803), ngay sau khi ông mới nhậm chức Tổng trấn Bắc Thành.

Tháng Giêng năm Kỷ Tỵ (1809), theo kiến nghị của Nguyễn Văn Thành, nhà Nguyễn cho đặt cơ quan Đê chính Bắc Thành, sai Binh bộ Đặng Trần Thường làm Tổng lý, Tham tri Công bộ là Nguyễn Khắc Thiệu làm Tham lý. Tháng 9 cùng năm, nhà Nguyễn ban Điều lệ Đê chính cho Bắc Thành gồm 8 điều quy định nhằm nâng cao hiệu quả mọi mặt trong việc tổ chức, xây dựng, bảo vệ đê điều, góp phần vào công cuộc trị thủy ở đồng bằng Bắc Bộ[20].   

Nhằm tăng cường lưu thông hàng hóa trong nước, trong quá trình tái thiết thành Thăng Long, Nguyễn Văn Thành cho xây dựng công trình chợ lớn, hoàn thành vào năm Ất Sửu (1805). Sử gia Phan Thúc Trực mô tả về chợ: “Đặt chợ lớn ở cửa chính Đông. Chia đặt phố xá, đường đi, cốt lấy vuông và thẳng[21]. Nhiều khả năng ngôi chợ này là chợ Đồng Xuân thuộc địa phận phường Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội ngày nay.

Năm Canh Ngọ (1810), Nguyễn Văn Thành tâu lên vua Gia Long 4 điều, trong đó các điều về vấn đề kinh tế như sau: Điều thứ 2 là Bắc Thành có các mỏ đồng, mỏ Tụ Long là tốt nhất, tự mỏ ấy đóng cửa khiến cho tài nguyên không lấp, quốc dụng thường thừa thãi, đấy cũng là một đạo sinh tài (Khi mỏ bị đóng cửa, dân gian bị thiếu tiền lưu thông). Điều thứ 3 là lệ thuế cửa tuần bến đò đã có định ngạch, gần đây nghe sở tại nhiều nơi lấy thuế bậy, xin thân minh điều cấm không để hại người buôn4

Với trách nhiệm của Tổng trấn, Nguyễn Văn Thành đã quan tâm đến nhiều khía cạnh của nền kinh tế Bắc Thành, từ nông nghiệp, thủy lợi, thương nghiệp, thủ công nghiệp khai thác, thuế khóa... Những ý kiến ông đưa ra, tâu lên triều đình đều về những vấn đề thiết thực, cấp bách và có giá trị đối với đời sống lao động sản xuất của nhân dân. Cũng nhờ sự phản ánh của ông mà triều đình trung ương ở Phú Xuân mới có thể ra được những quyết sách phù hợp, ích lợi cho dân sinh. 

* Trong lĩnh vực giáo dục, văn hóa, xã hội

Trong việc phát triển văn hóa, giáo dục ở đất Bắc Thành đầu thế kỷ XIX, Tổng trấn Nguyễn Văn Thành đóng vai trò rất lớn. Tháng 2 năm Quý Hợi (1803), Tổng trấn Bắc Thành cho in sách Thánh dụ quảng huấn của nhà Thanh, đem chứa ở Quốc Tử Giám Bắc Thành. Tháng 3 năm Giáp Tý (1804), Nguyễn Văn Thành xin triều đình ban học quy cho các thành và các dinh, trấn: “Hiện nay Thánh thượng lưu ý đào tạo nhân tài, chia đặt đốc học, rèn đúc học trò để phục vụ quốc gia. Đó thực sự là cơ hội lớn để sửa đổi phong tục và tác thành nhân tài. Nhưng sự dạy dỗ mới bắt đầu thì văn khoa cử nên có kiểu mẫu để làm khuôn phép cho học trò. Vậy xin chuẩn định học quy, khiến cho người dạy lấy đó mà dạy học trò và học trò lấy đó mà chuyên nghiệp, để cho việc giảng dạy, khảo khóa noi theo[22]. Vua Gia Long chuẩn định lời tâu, sai Tham tri Bộ Hình là Nguyễn Thế Trực và viên quan ở Quốc Tử Giám là Nguyễn Viết Ứng soạn định những bài mẫu mới về Kinh nghĩa[23]Văn sách[24] để ban bố thi hành[25]. Ngoài ra, ông còn cho đặt thêm trợ giáo để chỉnh đốn sĩ tập, đúc nuôi đa sĩ[26]. Vì vậy, trong bài nghiên cứu “Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành với sự nghiệp chấn hưng việc học, việc thi vào đầu triều Nguyễn”, tác giả Tạ Ngọc Liễn khẳng định ông có công trong việc chấn hưng việc học và việc thi tại vùng đất Bắc Thành: “Rõ ràng trong khi xây dựng nền giáo dục Nho học thời kỳ đầu triều Nguyễn, Nguyễn Văn Thành đã có vai trò của một nhà kiến trúc sư tài giỏi và tâm huyết. Vì mới xây dựng chế độ học hành thi cử, ngoài học quy, Nguyễn Văn Thành còn chú trọng tăng cường người lãnh đạo giáo dục khoa cử ở các trấn[27]. Chủ trương của nhà nước trong những năm đầu thế kỷ XIX là xây dựng Văn miếu của các trấn ở Bắc Thành, Nguyễn Văn Thành là người trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng Văn miếu và phát triển giáo dục ở các địa phương. 

Đồng thời, để cổ súy đạo học, ông cho xây dựng công trình văn hóa, lịch sử Khuê Văn Các trong khu vực Văn Miếu - Quốc Tử Giám Thăng Long. Quốc sử di biên ghi: “Tháng 8 năm Ất Sửu (1805), Quận Thành dựng Khuê Văn Các ở Hoài Đức học đường, ở phía ngoài phương tỉnh trước sân Văn Miếu. Vân Canh Trần Bá Lãm[28] dâng bài phú về Khuê Văn Các. Ông yêu thích văn học, Phan Thúc Trực phản ánh qua Quốc sử di biên: “Thời bấy giờ,

Quận Thành yêu văn học, Nguyễn Hồng ở Hải Dương, Phạm [Đình] Hổ ở Đan Loan, Vũ Dĩnh ở Mộ Trạch, Phạm Hoành Hải, Vũ Nghị và Uông Sĩ Độ ở Sơn Nam, Nguyễn Hú ở Gia Châu, Cao Huy Diệu ở Phú Thị, Nguyễn Quốc Thực ở Hồi Bão đều là môn hạ, làm bạn hàn lâm, nổi tiếng tài tử[29].

Trong những năm quản lý Bắc Thành, ông nỗ lực trong tổ chức công việc, nhằm ổn định đời sống, đảm bảo lợi ích cho nhân dân và ổn định xã hội. Năm Bính Dần (1806), Nguyễn Văn Thành vào kinh chầu, dâng địa đồ nội ngoại 11 trấn và các phủ châu huyện cộng 164 bản[30]. Tháng 12 năm Đinh Mão (1807), ông cho làm xong hộ tịch ở 23 phủ, 100 huyện, 848 tổng, 6.280 xã, thôn, phường, vạn, trại, sách thuộc Bắc Thành, tổng số đinh là 193.389 người. Con số trong sổ thường hành (sổ ghi tên những người đóng thuế thân) của triều Lê ghi là 268.990. Vua Gia Long thấy số đinh kém đi nên không bằng lòng nhưng nghĩ việc nước mới bình định, chính trị nên rộng rãi, nên tạm để đó[31]. Từ góc độ của người dân, việc thống kê chính xác số liệu dân đinh đã giúp giảm bớt cho làng xã Bắc Thành việc phải nộp khống số thuế. Từ đó, chúng ta có thể thấy được việc lập lại sổ đinh của Tổng trấn Nguyễn Văn Thành rất có ý nghĩa đối với nhân dân lao động, giảm bớt được gánh nặng thuế khóa, ổn định đời sống xã hội của các làng xã đầu thế kỷ XIX.

Trong hoàn cảnh thiên tai, mất mùa, dân đói khổ, Nguyễn Văn Thành nhanh chóng thực hiện những biện pháp cứu trợ và làm yên lòng dân. Tháng 6 năm Giáp Tý (1804), Bắc Thành nước lớn, đê vỡ, thành thần (vị đại thần đứng đầu thành) đem thóc kho phát chẩn rồi đem việc tâu lên. Tháng 7 cùng năm, Nguyễn Văn Thành tâu: “Liền năm đê vỡ, các trấn tại hại rất nhiều. Xin phàm việc không cần kíp và kiện vặt ở các nhà đều cho hoãn cả. Thuế mùa hạ và thuế trốn thiếu năm trước cũng xin đều thu vào mùa đông, để dân đỡ cấp bách[32]. Tháng Giêng năm Canh Ngọ (1810), Bắc Thành gặp nhiều thiên tai, dân bị đói to: “Dân Bắc Thành bị đói. Trước là trấn Kinh Bắc, Hải Dương, Yên Quảng, Sơn Nam Hạ bị hạn và lụt, thành thần đem việc thiên tai báo lên. Sai hoãn việc đòi lính, nghỉ hỏi kiện vặt, bãi các công dịch, lại sai thành thần bàn kỹ chính sách cứu đói Nguyễn Văn Thành dâng sớ nói: “Nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm đầu” Sau khi các trấn bị thiên tai, nhân dân ngày càng đói lắm. Xin bàn cách phát chẩn và cho vay, để đỡ túng ngặt cho dân, cấm chọn tiền để dân tiêu dùng được dễ[33]. Đại Nam liệt truyện cũng phản ánh tình trạng đói kém của dân Bắc Thành và sự kiện Nguyễn Văn Thành xin chẩn thái6 để cứu đau khổ cho dân. Vua Gia Long sai phát thóc kho 30.000 hộc, Trương Tấn Bửu, Phạm Như Đăng, Nguyễn Đình Đức chia đi các nơi chẩn cấp[34]

Tháng 11 năm Giáp Tý (1804), quan Bắc Thành tâu xin dựng nhà coi việc ở cửa Nam thành, cứ 5 ngày một lần họp quan để bàn việc. Ai có tình trạng uất ức, đã qua 3 nha: trấn, phủ, huyện mà chưa được phục tình, thì cho đầu đơn để xét cho rõ lý. Vua y theo lời tâu. Tháng 12, quan Bắc Thành tâu rằng: các nha hỏi việc hình còn nhiều án tích lại, làm lụy cho dân. Xin cứ đến cuối năm kiểm soát, trước sau 3 nha: trấn, phủ, huyện đều ghi sổ những án xét để làm bằng mà kê cứu. Vua y lời tâu[35]

Năm thứ 7 (1808), Bắc Thành tứ trấn trộm giặc nổi dậy như ong, Thành sai thuộc tướng chia đường tiến đánh, 36 trận lớn nhỏ mới dẹp yên được, được vua Gia Long thưởng 20.000 quan tiền. Đại Nam liệt truyện chép: Trước các đám giặc nhiều đứa mượn tiếng là tôn nhà Lê để dối hoặc ngu dân, Thành sai Trần Hựu làm bài hát “ điểm mê” để hiểu dụ, dân gian cũng có bài hát “tố khuất”, đổ lỗi cho quan lại tham nhũng mà dân làm loạn, Thành sai quan địa phương sở tại rộng đi hiểu dụ, dân tình mới yên. Thành lại cùng 3 tào (Hộ tào, Binh tào và Hình tào) làm sớ bày sự nghi 5 điều: 1. Là dẹp cướp yên dân; 2. Là truy tôn việc thờ cúng; 3. Là tăng lương quan lại để nuôi liêm; 4. Là định niên khóa để xét công quan lại; 5. Là thông hành tiền Gia Hưng cho dân dùng được thừa thãi. Vua sai châm chước dần dần bàn thi hành[36].

Theo tác giả Nguyễn Minh Tường, Bùi Văn Huỳnh, “qua những bản điều trần và những việc làm của Nguyễn Văn Thành trong thời kỳ làm Tổng trấn Bắc Thành, chúng ta thấy ông tỏ ra hiểu rõ đường lối Nhân chính của Mạnh Tử... Chúng tôi cho rằng vào đầu triều Nguyễn, một trong những người có tài chính trị và thương dân hơn cả là Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành[37].

Đầu thế kỷ XIX, khi đảm nhận trọng trách Tổng trấn, ông nhận thấy một thực tế là trong hương thôn ở Bắc Thành, “phàm tiết ăn uống, lễ cưới xin, việc tang ma chay và thờ thần, thờ Phật, nhiều việc quá trớn lấn lễ, bọn hào mục nhân đó mà đục khoét, người cùng dân đến nỗi dạng xiêu, thực là bởi cớ ấy[38]. Vì vậy, Nguyễn Văn Thành đã tấu về triều đình xin “định Điều lệ hương đảng cho các xã dân ở Bắc Hà”. Triều đình chấp thuận và ban 5 điều lệ: 1. Về tiết ăn uống; 2. Về lễ vui mừng; 3. Về lễ giá thú; 4. Về việc tang tế; 5. Việc thờ thần, thờ Phật. Điều lệ hương đảng nhấn mạnh: “những điều trên này cũng đều nên cố đổi tệ cũ, kính giữ giáo điều. Nếu cứ quen theo thói làng, can phạm phép nước, có người phát giác thì Xã trưởng phải đồ lưu đi viễn châu, dân hạng, nặng thì sung dịch phu, nhẹ thì xử roi hay trượng, để bớt tổn phí cho dân, mà giữ phong tục thuần hậu[39]. Nguyễn Văn Thành có “đóng góp hết sức quan trọng với việc chấn chỉnh kịp thời bộ máy quản lý làng xã và bộ máy trung gian cấp tổng, cùng với việc định ra điều lệ, góp phần giữ vững được sự ổn định tương đối của các làng xã ở Bắc Thành đầu thế kỷ XIX[40].

* Trong việc kiến thiết, tu bổ thành Thăng Long

Theo lệnh của triều đình, Nguyễn Văn Thành tổ chức xây dựng lại thành Thăng Long. Đại Nam thực lục chép về việc kiến thiết như sau: Tháng Giêng, Gia Long năm thứ 2, Quý Hợi (1803) xây thành Thăng Long. Vua thấy quy chế của thành chật hẹp muốn mở rộng thêm. Sai thành thần vẽ đồ dâng lên, sai các dinh quân đắp, những vật liệu cần dùng thì do quan trả tiền theo giá. Kẻ nào sách nhiễu tiền của dân thì bị tội, truy tang trả lại cho dân. Tháng 6 năm Ất Sửu (1805), sai xây các cửa thành Thăng Long (cửa Đông Nam, cửa Tây Nam, cửa Đông, cửa Tây và cửa Bắc), mỗi cửa đều dựng bia để ghi[41]. Đại Nam nhất thống chí chép: “Thành Phụng Thiên ở trong Đại La. Thành lâu năm sụp đổ, đến đời Tây Sơn, theo nền cũ đắp thành quanh từ cửa Đông Hoa đến cửa Đại Hưng; bản triều, đầu đời Gia Long lấy làm lỵ sở của Bắc Thành. Năm thứ 3 (1804), triều thần bàn rằng thể chế xây thành của Tây Sơn không hợp quy củ, tâu xin sửa đổi lại. Năm thứ 4 (1805), sai quan đốc sức việc xây đắp, trong thành dựng Kỳ đài (tức Cột cờ) và hành cung với hai điện chính, một Tả vu, một Hữu vu, mà sau dựng 3 tòa nội điện, một Tả vu, một Hữu vu, sau điện dựng lầu Tĩnh Bắc, quanh nội điện đều xây tường gạch, lại đằng trước chính điện xây một đường ống bằng đá thẳng đến Đoan Môn, có biển bằng đá, khắc 2 chữ Đoan Môn, đây là di tích từ đời Lý; ngoài cửa dựng nhà bia, xây Kỳ đài, quy mô rộng lớn[42]. Trong Quốc sử di biên, Phan Thúc Trực mô tả chi tiết hơn: “Trong là Hoàng thành, lấy cửa Đoan Môn, điện Kính Thiên làm chính giữa. Đằng trước xây dựng cột cờ gọi là “Kỳ đài” cao 100 thước ta. Ngoài thành mở 7 cửa, trên cửa có chòi, đều có cột đồng trụ. Quanh thành dẫn nước sông Tô Lịch làm hà: lấp chỗ thấp, mở chỗ hẹp, không tránh khỏi chỗ lồi lõm (duy phía Tây Nam hẹp thì bồi lại). Trên hào, xây gạch làm cầu. Chân thành rộng 7 trượng, mặt thành rộng 2 trượng, trong làm 5 bậc, trên đặt nữ tường[43] và lỗ châu mai. Kiền thành khuất khúc như hoa hồi. Dỡ tháp Báo Thiên và chùa Đằng Châu, lấy gỗ đá để xây thành, nhẵn nhụi như mài. Các doanh, vệ ngang dọc như bàn cờ. Chỗ đất trống không thì trồng mít, chuối, các thứ. Đặt chợ lớn ở cửa chính Đông Chia đặt phố xá, đường đi, cốt lấy vuông và thẳng. Ngoài cùng, đắp đất trồng tre làm lũy. Tùy tiện mở đặt các cửa ô, trên cửa có chòi canh[44][45]

Những mô tả về thành Thăng Long còn được đề cập đến trong Bắc thành địa dư chí lược, cụ thể như sau: “Thành có chu vi 1958 tầm3 2 thước 5 tấc. Bệ xây bằng gạch đá. Ngoài thành có hào, mở 5 cửa: Đông Nam môn, Tây Nam môn, chính Đông môn, chính Nam môn, chính Bắc môn. Thềm làm theo kiểu trên tròn dưới vuông. Trên thành có lầu, ngoài xây góc thành, trong cửa thành phía Đông Nam xây khởi đường, gọi là nhà Hiệp Nghị, đặt 6 phòng để giữ công văn, giấy tờ và các công văn phát trạm... Ngoài thành đặt nhà trạm (đình Quảng Văn nơi niêm yết tên người đỗ Tiến sĩ thời Lê) là nơi niêm yết các chiếu thư. Góc Cửa Bắc đặt kho chứa lương. Trong thành nội có núi Nùng dựng hoàng cung, chính điện tòa, tả hữu vu 6 gian xung quanh xây tường gạch, mở 5 cửa nách để thông với nội đình đặt thêm bậc tam cấp và lối đi... Ngoài đường hẻm là cửa Đoan môn, trên cổng có khắc 2 chữ “Đoan môn” (di tích này có từ triều Lý nay vẫn giữ nguyên, trên cổng đặt lầu trống).

Phía ngoài đình rượu bia, ghi việc sau khi đắp thành[46].

Theo Đại Việt địa dư toàn biên,Đến năm Gia Long thứ 4 đắp thành lại. Chu vi 1.295 trượng, cao 1 trượng 3 thước 2 tấc (năm Minh Mệnh thứ 16 đo hạ thấp 1 thước 8 tấc). Trong thành đặt hành cung (trước theo tên cũ thời Lê gọi là điện Kính Thiên. Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) đổi làm điện Long Thiên). Đàng trước dựng lầu 5 cửa, các kho tàng và nhà các quan văn võ đều theo lối cũ nhà Lý. Ngoài thành xây cột cờ kích thước cũng khéo[47]. Phan Thúc Trực khẳng định: “Từ Trần, Lê về trước chưa bao giờ làm được như thế6Bên cạnh đó, trong quá trình xây dựng thành Thăng Long, Khuê Văn Các được xây dựng nhằm cổ súy đạo học, ngôi chợ lớn được coi là chợ Đồng Xuân ngày nay cũng được xây để phát triển kinh tế thương nghiệp. Hai công trình này đều được hoàn thành năm Ất Sửu (1805). Ngoài những ý nghĩa trên, các công trình này còn là minh chứng cho việc mở mang, nâng cấp cơ sở hạ tầng ở Bắc Thành dưới thời Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn.

 Với vai trò Tổng trấn Bắc Thành, trong 8 năm (1802 - 1810), Nguyễn Văn Thành đã làm việc cẩn trọng và đầy trách nhiệm. Khi mới nhậm chức Tổng trấn, ông từng tâu với vua Gia Long: “Việc binh, việc dân và việc lý tài ở Bắc Thành ba điều ấy rất quan trọng, phải xếp đặt rất nhiều, thần xin ngày ghi từng việc, mỗi tháng đóng thành tập đệ tâu một lần[48]. Có thể nói Nguyễn Văn Thành đã bao quát được các công việc của Bắc Thành và trong từng lĩnh vực, ông đều có những đóng góp quan trọng. Ông được xếp vào hàng trọng thần, được vua Gia Long yêu quý và nể trọng: “Vua yêu đến các quan cũ có công to, mỗi khi Thành đến chầu bèn cho ngồi thong dong hỏi han, Thành cùng đem hết sức tiềm tàng, tình hình ngoài biên, sự đau khổ của dân, kế hoạch nhà nước, mưu kế việc binh, biết cái gì là nói hết, cũng nhiều bổ ích2. Các sử quan triều Nguyễn đánh giá cao phẩm hạnh con người và công trạng của ông: “Thành có văn võ tài lược, lâm trận dụng binh mưu lược rồi mới đánh cho nên ít khi thua, lúc đầu trung hưng, công ấy tốt lắm. Đến lúc Bắc Hà đã định, một mình đương công việc Tổng trấn không động đến lời nói nét mặt mà trộm giặc đều yên, bày mưu chốn miếu đường, bày tâu sự nghị đều được thi hành, có thể gọi là người có mưu giỏi trị nước[49]. Những việc ông làm được trong thời gian đảm nhận chức vụ Tổng trấn Bắc Thành là những minh chứng rõ ràng nhất cho thấy ở ông “danh xứng với thực”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Lê Chất (2010), Bắc thành địa dư chí, in trong Tuyển tập văn hiến Thăng Long - Hà Nội, Tuyển tập địa chí, Tập II, Nxb. Hà Nội.
  2. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện Sử học, Sự nghiệp của danh nhân Nguyễn Văn Thành với lịch sử dân tộc Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX (Kỷ yếu hội thảo khoa học), Hà Nội, tháng 12-2013.
  3. Đỗ Văn Ninh (2019), Từ điển chức quan Việt Nam, Nxb. Thông tấn, Hà Nội.
  4. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, Tập Một, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
  5. Quốc sử quán triều Nguyễn (1971), Đại Nam nhất thống chí, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
  6. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam liệt truyện, Tập II, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
  7. Phương Đình Nguyễn Văn Siêu (1997), Đại Việt địa dư toàn biên, Nxb. Văn Hóa, Hà Nội.

8. Phan Thúc Trực (2019), Quốc sử di biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

 


[1] Sau khi Nguyễn Văn Hiền chết trận được truy tặng Chưởng cơ, được thờ ở đền Hiển Trung và miếu Trung Tiết Công Thần ở kinh đô Phú Xuân (Huế).

[2] Đinh Xuân Lâm (2013), “Danh nhân Nguyễn Văn Thành - Một nhân vật lịch sử có nhiều cống hiến đối với lịch sử dân tộc vào đầu thế kỷ XIX”, in trong Kỷ yếu hội thảo khoa học Sự nghiệp của danh nhân Nguyễn Văn Thành với lịch sử dân tộc Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX, Hà Nội, tr.5.

[3] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004),  Đại Nam thực lục, Tập Một, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, tr.528-529; Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam liệt truyện, Tập Một, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr.409.

[4] Đỗ Văn Ninh (2019), Từ điển chức quan Việt Nam, Nxb. Thông tấn, Hà Nội, tr.594.

[5] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập Một, Sđd, tr.504-505.  

[6] Nguyễn Đức Nhuệ (2013), “Về tổ chức bộ máy hành chính Bắc Thành và chức Tổng trấn Bắc Thành do Nguyễn Văn Thành nắm giữ (1802-1810)”, in trong Kỷ yếu hội thảo khoa học Sự nghiệp của danh nhân Nguyễn Văn Thành với lịch sử dân tộc Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX, Sđd, tr.27.

[7] Đinh Xuân Lâm, “Danh nhân Nguyễn Văn Thành - Một nhân vật lịch sử có nhiều cống hiến đối với lịch sử dân tộc vào đầu thế kỷ XIX”, Sđd, tr.6.

[8] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập Một, Sđd, tr.581; Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam liệt truyện, Tập Một, sđd, tr.410.

[9] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập Một, Sđd, tr.548.

[10] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập Một, Sđd, tr.571-572.

[11] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập Một, Sđd, tr.613.

[12] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập Một, Sđd, tr.617.

[13] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập Một, Sđd, tr.667-668; Quốc sử quán triều Nguyễn , Đại Nam liệt truyện, Tập I, Sđd, tr.410.

[14] Lê Đình Sỹ (2013), “Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành với công cuộc bảo vệ vùng biên giới phía Bắc của Tổ quốc”, in trong Kỷ yếu hội thảo khoa học Sự nghiệp của danh nhân Nguyễn Văn Thành với lịch sử dân tộc Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX, , tr.107.

[15] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, Tập MộtI, Sđd, tr.412.

[16] Quốc sử quán triều Nguyễn Đại Nam thực lục, Tập Một, Sđd, tr.539-540.

[17] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập Một, Sđd, tr.561.

[18] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập Một, Sđd, tr.592. 5 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập Một, Sđd, tr.634.

[19] Quốc sử quán triều Nguyễn Đại Nam thực lục, Tập Một, Sđd, tr.655, 713-714, 749.

[20] Quốc sử quán triều Nguyễn Đại Nam thực lục, Tập Một, Sđd, tr.744, 764-765.

[21] Phan Thúc Trực (2019), Quốc sử di biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.55. 4 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, Tập I, Sđd, tr.413.

[22] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập Một, Sđd, tr.591.

[23] Kinh nghĩa: là bài văn giải thích rõ nghĩa các Kinh, Truyện của Nho giáo.

[24] Văn sách: là bài văn trình bày về mưu lược, kế sách trị quốc, an dân của thí sinh.

[25] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập Một, Sđd, tr.591.

[26] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, Tập I, Sđd, tr.410.

[27] Tạ Ngọc Liễn (2013), “Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành  với sự nghiệp chấn hưng việc học, việc thi vào đầu triều Nguyễn”, in trong Kỷ yếu hội thảo khoa học Sự nghiệp của danh nhân Nguyễn Văn Thành với lịch sử dân tộc Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX, tr.39.

[28] Trần Bá Lãm (1758 - 1815) người xã Vân Canh, huyện Từ Liêm (nay thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội). Ông đỗ Tiến sĩ Chế khoa, khoa Đinh Mùi (1787), làm Đốc học Bắc Thành.

[29] Phan Thúc Trực, Quốc sử di biên, Sđd, tr.51.

[30] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, Tập MộtI, Sđd, tr.411.

[31] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập Một, Sđd, tr.714.

[32] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập Một, Sđd, tr.603, 615.

[33] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập Một, Sđd, tr.772. 6 Chẩn thái: chẩn là phát chẩn, thái là phát thóc cho dân vay.

[34] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, Tập Một, Sđd, tr.412.

[35] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập Một, Sđd, tr.619, 621.

[36] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, Tập Một, Sđd, tr.411.

[37] Bùi Văn Huỳnh, Nguyễn Minh Tường (2013), “Về tờ sớ “Nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm đầu” gửi vua Gia Long năm 1810 và tấm lòng thương dân của vị Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành”, in trong Kỷ yếu hội thảo khoa học Sự nghiệp của danh nhân Nguyễn Văn Thành với lịch sử dân tộc Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX, , tr.139, 140.

[38] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập Một, Sđd, tr.583.

[39] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập Một, Sđd, tr.587.

[40] Vũ Duy Mền (2013), “Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành với việc chấn chỉnh bộ máy quản lý và phong tục làng xã ở Bắc Thành đầu thế kỷ XIX”, in trong Kỷ yếu hội thảo khoa học Sự nghiệp của danh nhân Nguyễn Văn Thành với lịch sử dân tộc Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX, , tr.57.

[41] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập Một, Sđd, tr.543, 632.

[42] Quốc sử quán triều Nguyễn (1971), Đại Nam nhất thống chí, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.165-166.

[43] Nữ tường: tường nhỏ xây bằng gạch ở trên thành lớn.

[44] Phan Thúc Trực, Quốc sử di biên, Sđd, tr.55.

[45] tầm = 8 m.

[46] Lê Chất (2010), Bắc thành địa dư chí,  tuyển tập văn hiến Thăng Long - Hà Nội, Tuyển tập địa chí, Tập I, Nxb. Hà Nội, tr.923.

[47] Phương Đình Nguyễn Văn Siêu (1997), Đại Việt địa dư toàn biên, Nxb. Văn Hóa, Hà Nội, tr.363. 6 Phan Thúc Trực, Quốc sử di biên, Sđd, tr.55.

[48] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, Tập I, Sđd, tr.410. 2 Quốc sử quán triều Nguyễn Đại Nam liệt truyện, Tập I, Sđd, tr.411.

[49] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, Tập I, Sđd, tr.419.