LỜI GIỚI THIỆU

Website  honguyenquancong.com là kênh thông tin chính thức của dòng họ

Nguyễn Huế - Gia Định, là diễn đàn trao đổi giữa các chi họ Nguyễn trong

và ngoài nước. Ban quản trị Website mong muốn nhận được bài viết, hình

ảnh về các hoạt động của các chi họ để trang Web thêm phong phú, đa dạng.

Mọi thông tin xin gửi về địa chỉ Email: honguyenquancong@gmail.com hoặc

duyhung12258@gmail.com. 

TỔNG TRẤN BẮC THÀNH NGUYỄN VĂN THÀNH TRONG TÂM THỨC CỦA HẬU THẾ

Tham luận tại Hội thảo Khoa học "Tổng trấn Nguyễn Văn Thành với Thăng Long- Hà Nội" củaTiến sĩ Nguyễn Duy Hưng, hậu duệ đời thứ 6 của Ngài Tổng trấn.

Khuê văn các – di tích lịch sử văn hóa kiến trúc độc đáo này mọi người dân ai ai cũng biết; Nhưng ai là người sáng tạo nên Khuê Văn Các và cũng là người cho xây dựng Hoàng thành Thăng Long, xây năm cổng thành (Cửa Đông Nam, Cửa Bắc, Cửa Nam, Cửa Tây và Cửa Tây Nam) và nhiều công trình kiến trúc khác của Hà Nội còn hiện hữu thì quá nhiều người chưa biết đến. Đó là một nhà Chính trị, Nhà văn hóa, là Tổng công trình sư, Ông đã đóng góp cho Hà Nội nhiều giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể trải dài hầu hết trong nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục…Ông là một con người đầy tài năng, một con người mà bao năm qua lặng lẽ cùng các góc khuất của lịch sử. Ông chính là Quận Công Nguyễn Văn Thành, vị Tổng trấn Bắc thành đầu tiên của Triều Nguyễn…Đã hơn 200 năm sau khi Tổng trấn Bắc Thành qua đời, hậu thế chúng ta đã làm gì để ghi nhận công lao to lớn của người đối với Thủ đô Văn hiến nói riêng và với dân tộc Việt Nam nói chung? 

Ký hiệu viết tắt:

- Hội thảo Khoa học: “Danh nhân Nguyễn Văn Thành (1758 - 1817), cuộc đời và sự nghiệp - Tháng 12/2013”.  – (HTNVT 2013);

- Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành – (Tổng Trấn);

A. Sơ lược về cuộc đời và những cống hiến của Ngài Tổng Trấn

Nguyễn Văn Thành (1758-1817). Tiên tổ của Người ở Thuận Hóa, phủ Triệu Phong, huyện Quảng Điền, xã Bác Vọng nay là xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Tằng tổ là Nguyễn Văn Toán dời vào Gia Định. Tổ là Nguyễn Văn Tính lại dời đến ở Bình Hòa. Cha ông là Nguyễn Văn Hiền lại dời vào Gia Định. Đại Nam Liệt truyện ghi: "Nguyễn Văn Thành trạng mạo đẹp đẽ, tính trầm nghị, thích đọc sách, tài võ nghệ".

Năm Quý Tị 1773, ông cùng cha ra tận đất Phú Yên ngày nay để đầu quân cho Định Vương Nguyễn Phúc Thuần.

Năm Ất Mùi 1775, cha của ông là Nguyễn Văn Hiền làm quan đến chức “Tiền minh nghĩa công thần” Đặc tấn phong chức“Tráng võ phụ quốc Thượng tướng quân - Chưởng dinh Hiền Đức Hầu”. Tại chiến địa Tam Sơn Ngài chẳng may bị ngộ nạn qua đời.

Năm Mậu Tuất 1778, Nguyễn Ánh cho triệu ông về dưới trướng.

Năm Bính Ngọ 1786, Nguyễn Ánh cử Ông cùng Lê Văn Quân giúp quân Xiêm đánh tan quân Miến Điện ở Sài Nặc (trên đất Xiêm).

Năm Đinh Mùi 1787, vào mùa thu, Đại Nam Liệt Truyện ghi: "...trận đánh ở Mỹ Tho, quân ta bất lợi. Có người bảo Ông về ở ẩn quê nhà, để đợi thời cơ. Thành nói rằng: “Nghĩa cả vua tôi sống chết vẫn theo đi, sự thành bại nhờ trời, ta đoán trước sao được, và nhân bị quở mà đi, nhân thua mà trốn là phản phúc, tiền nhân ta không làm thế.”

Năm Tân Dậu 1801, Ông lãnh ấn Khâm Sai Chưởng Tiền Quân, Bình Tây Đại Tướng Quân, tước Quận Công.

 Sách Đại Nam Liệt truyện ghi “Ông là người biết chữ, hiểu nghĩa sách, biết đại thể, ở trong chư tướng, Vua trọng Thành hơn cả, không cứ việc lớn việc nhỏ đều hỏi để quyết đoán. Mỗi khi ông đến chầu vua cho ngồi thong dong hỏi han, ông cũng đem hết sức hiểu biết tiềm tàng, tình hình ngoài biên, sự đau khổ của dân, kế hoạch nhà nước, mưu kế việc binh… biết điều gì là nói hết, cũng rất nhiều bổ ích".

Về tài cầm binh, Nguyễn Văn Thành là vị tướng "phân tích kỹ lưỡng, đâu là điểm mạnh, đâu là thế yếu, rồi mới quyết đoán, lúc tiến, khi lui rất linh hoạt nhằm giảm thiểu hao tổn tướng sĩ". Trong một truyền dụ của triều đình còn ghi: "quân ta giao tranh, đánh ba trận thắng ba trận, ta lấy được La Thai, tuy chưa bắt được hết nhưng cũng là toàn thắng. Đó thực là do đại tướng giỏi cầm quân và quân sĩ biết vâng theo mệnh lệnh…".

Sách Đại Nam thực lục chính biên (đệ nhất kỷ năm Gia Long thứ nhất - Nhâm Tuất 1802) chép rằng “Bắc Hà mới bình định, dân vật đổi mới, cố đô Thăng Long lại là trung tâm của Bắc thành với nghìn năm văn hiến đồng thời cũng là nơi đã từng chứng kiến bao cuộc thăng trầm của lịch sử dân tộc, nên cần có trọng thần để trấn thủ bèn phong cho ông làm Tổng trấn Bắc thành, ban cho sắc ấn trong ngoài mười một trấn đều thuộc vào cả, các việc truất nhắc quan lại, xử quyết việc án, đều được tiện nghi làm việc, sau mấy năm mà đất Bắc Hà được yên trị. .

 Là một võ tướng, nhưng Nguyễn Văn Thành rất coi trọng việc học hành thi cử. Năm Giáp Tý 1804, ông tâu:"Hiện nay thánh thượng lưu ý đào tạo nhân tài, chia đặt đốc học, rèn đúc học trò, để cống hiến cho đất nước. Đó thực là cơ hội lớn để sửa đổi phong tục tác thành nhân tài. Nhưng sự dạy dỗ mới bắt đầu thì văn khoa cử nên có kiểu mẫu để làm khuôn phép cho học trò. Vậy xin chuẩn định học quy, khiến cho người dạy lấy đó mà dạy học trò và học trò lấy đó làm căn cứ để rèn giũa chuyên nghiệp giảng dạy khảo khóa lấy đó mà theo". Vua liền chuẩn tấu.

Theo Quốc sử di biên của Phan Thúc Trực: Năm Giáp Tý 1804 ông đã nỗ lực thống nhất các đồ cân, đo, lường ở các trấn Bắc Thành. Đồng thời cho đúc thước đạc điền được dùng từ Quảng Bình trở vào Nam và thước Kinh được dùng từ Nghệ An trở ra Bắc.

Biết nỗi thống khổ của người dân sau nội chiến, ông đề xuất: Giảm thuế điền, thuế thân; Thi hành phép phân chia ruộng; Ngoài ra, ông còn khuyến khích dân chúng kiểm tra nghiêm ngặt, gia cố đê điều vì nước sông Nhĩ Hà chảy mạnh.

Mùa hạ năm Giáp Tý - 1804, Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành trông coi việc xây dựng lại Hoàng thành Thăng Long. Công trình này hoàn tất vào mùa thu năm Ất Sửu 1805.

Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí, ghi:

"Đến khi hoàng triều trung hưng thống nhất Nam Bắc, định đô ở Phú Xuân, coi Thăng Long là trấn lớn của phương Bắc, đặt lỵ sở của tổng trấn ở đây nhưng thấy cách sắp dặt trong thành cho các ban văn võ từ trước không thích hợp với phép tắc nên tâu xin cho xây dựng lại. Thành này chia làm năm cửa, trong thành dựng hoàng cung để phòng khi nhà vua đến thăm. Nhà vua ban tên là thành Thăng Long. Hiện nay, cổ tích của nội thành chỉ còn điện Kính Thiên và một cửa (Cổng thành Cửa Bắc) của năm cửa khuyết trước điện này mà thôi".

“…Một số nét chính của thành mới:

- Trong Hoàng Thành, lấy cửa Đoan Môn Điện Kính Thiên làm chuẩn, phía trước dựng cột cờ gọi là kỳ đài cao một trăm thước ta, lấy đó làm hiệu lệnh trong quân;

- Ngoài thành mở bảy cửa, trên có lầu đều có trụ đồng, dẫn sông Tô Lịch làm hào thành, trên hào lấy gạch nung làm cầu;

- Kiềng thành khuất khúc như hoa bát giác hồi hương, nền thành rộng bảy trượng, mặt thành hai trượng trong có năm bậc phía trên là tường nhỏ thấp, có lỗ châu mai;

- Gỗ, đá bào trơn như mài, các doanh, vệ ngang dọc như bàn cờ, đặt ngôi chợ lớn ở cửa chính đông (chợ Đồng Xuân ngày nay), phân chia quán xá, đường đi thật vuông, thẳng; Ngoài cùng đắp đất, trồng tre làm lũy, tùy chỗ mà đặt cửa ô, trên có lầu gác súng.

Trong thời gian này ông cho tu bổ Văn Miếu - Quốc Tử Giám, dựng Khuê Văn Các - Đây là một kiến trúc có giá trị độc đáo về khía cạnh văn hóa và mỹ thuật. Công trình hoàn thành vào mùa thu năm 1805. Kiến trúc này được đặt ở cửa Nghi Môn và chính tại đây hằng năm vào mùa Xuân và mùa Thu, chọn hai ngày Đinh lệnh cho quan đến tế, lại lấy bốn tháng giữa Xuân, Hạ, Thu, Đông tổ chức khảo thí học trò.

Năm Bính Dần 1806, sau khi xem xét kỹ lưỡng nguồn gốc đường biên giới phía bắc dựa vào địa dư từ trước để lại đến thực tế hiện tại, Tổng trấn Bắc Thành đã đề nghị đưa thư và đề cử người trao đổi với quan nhà Thanh, vạch rõ địa giới hai nước. Vào mùa đông cùng năm, khi vào kinh chầu, Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành đã dâng Vua bản đồ nội ngoại 11 trấn và các phủ, châu, huyện tất thảy 164 bản.

Tháng 12 năm Đinh Mão 1807, Tổng trấn Nguyễn Văn Thành cho khắc sách Đại học diễn nghĩa.

Năm Canh Ngọ 1810, ông được triệu về kinh, lãnh ấn Trung Quân, rồi được giao giữ chức Tổng tài cùng với Vũ Trinh và Trần Hựu soạn bộ Hoàng Việt Luật Lệ (thường được gọi là luật Gia Long). Việc soạn Hoàng Việt Luật Lệ bắt đầu từ tháng 2 năm 1811 và đến tháng 8 năm 1812 thì hoàn tất. Bộ luật có hai phần, chia làm hai mươi hai quyển, có tất cả ba trăm chín mươi tám điều, ban hành năm 1812, đến năm 1815 được khắc in. Theo Lược khảo Hoàng Việt luật lệ của Nguyễn Q. Thắng: “Hoàng Việt Luật Lệ là bộ luật đầy đủ và hoàn chỉnh nhất thời bấy giờ”.

Vào tháng 1 năm 1812, tiền quân Nguyễn Văn Thành được sung chức Tổng tài trong việc biên soạn Quốc Triều Thực Lục. Như vậy trong cùng một khoảng thời gian, ông đã kiêm nhiệm hai chức Tổng tài để biên soạn 2 bộ Luật (Hoàng Việt luật lệ và Quốc triều thực lục).

Tháng 12, năm 1815, gia đình Ngài Tổng Trấn bị vướng vào vụ án văn chương: con trai trưởng là Nguyễn Văn Thuyên đỗ cử nhân, thường giao du thơ văn với bạn bè. Chỉ vì hai câu thơ quái ác: “ …Thử hồi nhược đắc sơn trung tể; Tá ngã kinh luân chuyển hóa cơ” (Phen này nếu như gặp được vị Tể tướng trong núi; Giúp ta kinh luân chuyển hóa cơ trời) nên bị Triều đình buộc tội phản quốc. Ngày 11/5/2017, Ông tự sát để bảo vệ danh tiết của mình. Sau khi ông qua đời, Vua Gia Long rất ân hận than rằng “ Văn Thành từ lúc trẻ theo Trẫm có công lao to. Nay nhất đán đến nỗi chết; Trẫm không bảo hộ được, ấy là Trẫm kém đức”. Ngài ban cho điền trạch để xây Nhà thờ và cấy hái để hương hỏa.

Năm Mậu Thìn 1868, sau khi nguyên niên được 21 năm, vua Tự Đức đã truy xét công trạng, ban chiếu giải oan cho Ngài Tổng Trấn Nguyễn Văn Thành và cho liệt dự thờ tại Trung hưng công thần miếu, phục chức Chưởng Trung Quân Bình tây Đại tướng quân, tước Quận công cho Ngài Nguyễn Văn Thành và phong chức tước cho hậu duệ của Ngài.

B. Các chi phái dòng họ Nguyễn Tổng trấn hiện nay

Theo gia phả của họ Nguyễn Tổng trấn, thì Nguyễn Văn Thành có tới 18 người vợ và 28 người con, gồm 20 nam và 08 nữ.

- Chi phái trưởng của Tổng Trấn Bắc Thành là phò mã Nguyễn Văn Thuyên, đỗ cử nhân khoa Quý Dậu (1813), kết duyên cùng công chúa con của Vua Gia Long. Sau sự kiện vụ án thơ văn, Cha là Nguyễn Văn Thành vì oan ức mà tự vẫn chết, bản thân Nguyễn Văn Thuyên bị xử án chém. Sau khi chồng chết (Nguyễn Văn Thuyên), để tránh mặc cảm sự xa lánh của Dòng tộc, của xã hội “Công chúa cho bán hết tài sản để hai con trai là Nguyễn Ngọc Tiên và Nguyễn Ngọc Hằng lánh nạn ra Bắc Hà định cư còn công chúa thì đi tu”. Hậu duệ của dòng này hiện nay là chi họ Nguyễn ở Nam Định - Thái Bình và Hưng Yên. Năm 1868 vua Tự Đức có chiếu gia ân cho Tổng trấn Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Ngọc Tiên được nhà vua bổ nhiệm chức Cương dũng tướng quân làm quan Lãnh binh tỉnh Nam Định. Năm 1890, tỉnh Thái Bình thành lập, Nguyễn Ngọc Tiên được bổ làm Lãnh Binh tỉnh Thái Bình. Các hậu duệ của Phò mã Nguyễn Văn Thuyên đa phần sinh sống ở Nam Định, Thái Bình, Quảng Ninh và Hà Nội… Nếu theo thứ tự trong gia phả, thì đây là chi thứ nhất trong phái Tổng trấn Nguyễn Văn Thành.

- Chi thứ hai trong phái Tổng trấn Nguyễn Văn Thành là Nguyễn Văn Thậm (tên cũ là Diệm) do cụ bà Võ Thị Hòa sinh ra (Như vậy Nguyễn Văn Thuyên và Nguyễn Văn Thậm đều là con Cụ Võ Thị Hòa). Trưởng nữ của Quận Thành là Nguyễn Thị Viện [Viên] sinh năm Quý Sửu (1793) (con của bà chánh thất Trịnh Thị Sáu). Bà Viện đã cúng cho bên ngoại (dòng họ Nguyễn Văn Thành) thửa đất 3,1 sào (1.550 m2) để xây dựng Từ đường Quận công ở đường Nguyễn Lộ Trạch, Thành phố Huế. Hiện nay anh em ông Nguyễn Văn Thuận là hậu duệ đời thứ 6 của Cụ Nguyễn Văn Thậm cư trú trên thửa đất, trông nom, tu bổ, tôn tạo và thờ tự tại Từ đường này. (Địa chỉ tại: Số 80/11 đường Nguyễn Lộ Trạch, Phường Xuân Phú, T. phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế).

- Chi thứ ba trong phái Nguyễn Tổng trấn: Nguyễn Văn Hàm là con trai thứ, đã theo Lê Văn Khôi (con nuôi của Lê Văn Duyệt) nổi dậy chiếm thành Phiên An (năm 1833), chống lại triều đình, “con (Nguyễn Văn) Thành là Hàm theo giặc (Lê Văn Khôi) quản vệ năm khuông” . Cuộc nổi dậy nhanh chóng bị dập tắt, “Vua (Minh Mệnh) sai bắt tất cả thân thuộc lũ con Thành là Thần, Nhâm, Chuân, Huyền đều phải tội chết”. Hậu duệ của chi phái này hiện nay có ông Nguyễn Minh Châu (PGS-TS, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu cây ăn quả Miền Nam) gia đình hiện sinh sống tại TP. Hồ Chí Minh, TP Mỹ Tho – Tiền Giang và một số tỉnh lân cận.

- Chi thứ tư trong phái Tổng trấn Nguyễn Văn Thành là Nguyễn Văn Hân (1812-1865) con trai Nguyễn Văn Thành. Khi xảy ra vụ án vì còn nhỏ nên phải ở lại Phú Xuân chịu tang cha, “cho đến năm 1820 mới theo người anh là Nguyễn Văn Hàm chạy vào Gia Định, tới Quảng Nam thì gặp Vũ Trinh nên Hàm gửi tạm Hân ở lại Quảng Nam. Năm 1868 vua Tự Đức ban chiếu gia ân cho ngài Tổng Trấn, có vời Hân ra làm quan (Bố Chánh Hội An, Quảng Nam)” , đây là chi thứ tư trong phái Tổng trấn Nguyễn Văn Thành hiện con cháu ngụ cư tại Quảng Nam, Bình Định, Jalai…

- Một chi phái khác của Tổng trấn Nguyễn Văn Thành (không xác định được thứ mấy) đã thay tên đổi họ thành “họ Trần” ở Long Sơn, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang; đó là Trần Văn Kiển - một trong những người con của Nguyễn Văn Thành, chạy vào mảnh đất tận cùng sát biên giới Chân Lạp. Hiện nay hậu duệ của phái này sinh sống tại Thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang.

- Một chi phái khác nữa là Nguyễn Văn Loại, sau khi xảy ra vụ án đã thay tên đổi thành họ Mai, ông là con thứ của Tổng trấn Nguyễn Văn Thành, hiện nay con cháu sinh sống tại Long An, Đồng Tháp…

Còn nhiều hậu duệ của Ngài Tổng Trấn không xác định được thứ bậc đã thay đổi họ, tên định cư ở rất nhiều tỉnh thành trên mảnh đất hình chữ S (Thái Nguyên, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Bắc Ninh, Bình Định, Gia Lai, An Giang, Kiên Giang…), một bộ phận nhỏ lưu lạc sang Pháp, Đức, Campuchia, Hoa Kỳ…

C. Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành trong tâm thức của hậu thế

Lịch sử dựng nước và giữ nước vẫn là dòng chảy liên tục từ quá khứ tới hiện tại và tương lai. Công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam qua các triều đại giúp cho dân tộc ta mãi mãi trường tồn. Nhiều tấm gương người Việt Nam từ quá khứ tới hiện tại đã và đang góp phần tô điểm cho lịch sử nước nhà những trang vàng chói lọi… "Uống nước nhớ nguồn" là thể hiện truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta; là lời răn dạy của ông cha ta về lòng biết ơn, trân trọng những thành quả do thế hệ trước tạo dựng và thế hệ sau phải có ý thức trách nhiệm gìn giữ, phát huy những giá trị trân quý đó.

1. Di sản phi vật thể: Trên 200 năm sau ngày Ngài Tổng Trấn qua đời, rất nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, các nhà văn, nhà báo, nhà điện ảnh... và các hậu duệ đã viết về Ngài Tổng Trấn bằng tình cảm trân trọng, đánh giá công lao to lớn của Ngài bằng những cuốn sách nhiều trang, những tác phẩm điện ảnh v.v...qua đó khẳng định “Tổng trấn Nguyễn Văn Thành là người đóng góp nhiều công lao đối với tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam, rất đáng được hậu thế ghi nhận và biết ơn. Nguyễn Văn Thành xứng đáng là một Danh nhân lịch sử của nước ta ở cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX” (Trích đề dẫn của cố GS-NGND Đinh Xuân Lâm, Phó Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tại Hội thảo khoa học “Danh nhân Nguyễn Văn Thành (1758- 1817) – cuộc đời và sự nghiệp. Tháng 12/2013).

Ngoài các tác phẩm kinh điển: Đại Nam thực lục của tập thể Sử quán Triều Nguyễn; Đại Nam chính biên liệt truyện của Nguyễn Trọng Hợp; Đại Nam nhất thống chí của tập thể Sử quán Triều Nguyễn; Quốc sử di biên của Phan Thúc Trực; Bắc thành địa dư chí lục do Lê Công Chất tổ chức biên soạn; Thăng Long thập cửu vịnh của Phạm Đình Hổ, Hà Thành thi sao do Đỗ Thị Hảo chủ biên…Chúng tôi thống kê một số bài viết của các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ, các tác phẩm điện ảnh… viết về Tổng trấn Nguyễn Văn Thành.

DANH MỤC CÁC TÁC PHẨM, CÁC THAM LUẬN VIẾT VỀ TỔNG TRẤN BẮC THÀNH NGUYỄN VĂN THÀNH

   TT

                                  TÊN

                         TÁC GIẢ

THỜI GIAN

    1

Website: htpp://www.honguyenquancong.com

Ban biên tập: Nguyễn Duy Hưng, Nguyễn Minh Châu; Nguyễn Văn Thuận

Lập năm 2015

    2

Website: htpp://www.honguyenvietnam.vn

 

Lập năm 2018

    3

Báo cáo đề dẫn: Hội thảo khoa học “ Sự nghiệp của danh nhân Nguyễn Văn Thành đối với lịch sử dân tộc Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX.

Cố GS.NGND. Đinh Xuân Lâm, nguyên Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.

12/2013

    4

Hành trạng và sự nghiệp của Danh nhân lịch sử Nguyễn Văn Thành (1758-1817)

PGS.TS. Nguyễn Minh Tường (Viện Sử học):

12/2013

    5

Về tổ chức bộ máy hành chính Bắc thành và chức Tổng trấn Bắc thành do Nguyễn Văn Thành nắm giữ (1802-1810)

PGS.TS. Nguyễn Đức Nhuệ (Viện Sử học)

12/2013

    6

Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành với sự nghiệp chấn hưng việc học, việc thi vào đầu triều Nguyễn

PGS.TS. Tạ Ngọc Liễn (Viện Sử học):

12/2013

    7

Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành với việc sử dụng giới Nho sĩ Bắc Hà sau năm 1802.

PGS.TS. Hà Mạnh Khoa (Viện Sử học):

12/2013

    8

Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành với việc chấn chỉnh bộ máy quản lý và phong tục làng xã ở Bắc thành vào đầu thế kỷ XIX

PGS.TS. Vũ Duy Mền (Viện Sử học):

12/2013

    9

Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành với công cuộc xây dựng thành Thăng Long (1803-1805)

TS. Trương Thị Yến (Viện Sử học):

12/2013

   10

Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành  với việc thành lập cơ quan biên soạn Quốc sử của triều Nguyễn

TS. Nguyễn Hữu Tâm (Viện Sử học):

12/2013

11

Kỳ đài thành Thăng Long do Nguyễn Văn Thành xây dựng là một trong ba mươi thắng cảnh ở đất Bắc thành.

PGS.TS. Nguyễn Tá Nhí (Viện Nghiên cứu Hán Nôm)

12/2013

12

Bàn về ý nghĩa và tính biểu tượng của “Khuê văn các” trong khu Văn Miếu – Quốc Tử giám Thăng Long do Nguyễn Văn Thành xây dựng năm 1805

PGS.TS Nguyễn Minh Tường (Viện Sử học):

12/2013

13

 Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành với công cuộc bảo vệ vùng biên giới phía Bắc của Tổ quốc.

PGS.TS. Lê Đình Sỹ (Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam)

12/2013

14

 Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành với việc đắp đê và trị thủy vùng đồng bằng Bắc Bộ vào đầu thế kỷ XIX

PGS.TS. Đinh Quang Hải (Viện Sử học)

12/2013

15

Nguyễn Văn Thành – Tổng tài bộ “Hoàng Việt luật lệ” của Vương triều Nguyễn

PGS.TS. Đinh Khắc Thuân (Viện Nghiên cứu Hán Nôm):

12/2013

16

Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành với việc biên soạn sách “Dư địa chí” vào đầu thế kỷ XIX

NCV. Ngô Vũ Hải Hằng – Tường Minh (Viện Sử học)

12/2013

17

Về tờ sớ “Nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm đầu” gửi vua Gia Long năm 1810 và tấm lòng thương dân của vị Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành

Ths. Bùi Văn Huỳnh – PGS.TS. Nguyễn Minh Tường (Viện Sử học)

12/2013

18

Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành với việc xây dựng Văn Miếu ở các trấn của Bắc Thành vào đầu thế kỷ XIX.

Ths. Trần Nam Trung (Viện Sử học)

Năm 2013

19

Nội dung và nghệ thuật bài “Tế trận vong tướng sĩ” của Nguyễn Văn Thành

PGS.TS. Nguyễn Hữu Sơn (Viện Văn học)

Năm 2013

20

Suy nghĩ về tấm lòng nhân ái và công bằng của Nguyễn Văn Thành thông qua vụ án làm giả sắc phong thần của Đặng Trần Thường và Nguyễn Gia Cát vào năm 1811

NCV. Lê Quang Chắn (Viện Sử học)

Năm 2013

19

Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành với nhiệm vụ vỗ về nhân sĩ Bắc Hà qua trường hợp Tiến sĩ Phạm Quý Thích

TS. Vương Thị Hường (Viện Nghiên cứu Hán Nôm)

Năm 2013

20

Những suy nghĩ về Hội thảo: “Cuộc đời và Sự nghiệp của danh nhân Nguyễn Văn Thành đối với lịch sử dân tộc Việt nam đầu thế kỷ XIX”.

 

TS Nguyễn Duy Hưng

Năm 2013

21

Người có công phát triển vùng đất Bắc thành

Báo nhân dân điện tử;

24/12/2013

22

Khẳng định công lao Tổng trấn Nguyễn Văn Thành với Hà Nội 

Thanh Tuấn, Thông tấn xã Việt Nam

24/12/2013

23

Dấu tích danh nhân Nguyễn Văn Thành trên đất Thừa thiên - Huế

Nguyễn Văn Đăng, Mai Văn Được - Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển,

Số2 (128).2016

24

Khuê Văn Các - Hồn văn của một vị

tổng trấn;

Lê Khắc Niên

 

25

Cảm mộ Nguyễn Văn Thành

Nguyễn Lộc Yên

 

 

26

Chợ Đồng Xuân

Lanviethotel.com.vn

 

 

27

Nguyễn Văn Thành sự phối hợp kỳ ảo giữa triết lý và tình cảm trong tác phẩm văn tế tướng sĩ trận vong, 

Nguyễn Văn Sâm

 

28

Chén rượu rót đầu ghềnh của Tiền quân Nguyễn Văn Thành

Nguyễn Phúc Vĩnh Ba

 

29

Phim tài liệu: Một ánh sao khuê, đôi vầng nhật nguyệt

Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội

2014

30

Vằng vặc Sao Khuê ngàn năm văn hiến

Hanoivanhien.com

 

31

Bức phù điêu khắc cạn

Trích trong tập truyện ngắn Bức phù điêu khắc cạn của Nguyễn Thị Thảo An

 

32

Có một người con danh giá của làng Bác Vọng

Đan Duy

 

33

Đình Tân An – tỉnh Bình Dương: Đón nhận bằng di tích cấp quốc gia

Đức Lê:  baobinhduong.org.vn

 

34

Ấn dấu của Tổng trấn Nguyễn Văn Thành

 Nguyễn Công Việt

 

35

Hoàng Việt Luật Lệ

Dự án số hóa kho tàng thư tịch cổ văn hiến Hán Nôm

 

36

phim tài liệu: “Một ánh sao khuê đôi vầng nhật nguyệt”

Đài phát thanh và Truyền hình Hà Nội – Tác phẩm đạt giải Nhì dự thi nhân ngày Nhà báo Việt Nam

2014

37

"Trong trần ai, ai dễ biết ai"

Võ Hương An - Nhà Nghiên cứu, Hoa Kỳ.

 

38

Kế hoạch tổ chức 200 năm ngày giỗ quận công Nguyễn Văn Thành

Ban liên lạc Họ Nguyễn Quận công Việt Nam

 

 

39

Lễ Kỳ yên đình Thái Hưng 11-12/2 âm lịch năm đinh dậu (2017)

PGS.TS Nguyễn Minh Châu, hậu duệ đời thứ 6 của Tổng trấn Nguyễn Văn Thành

 

40

Ánh Sao Khuê (Thơ)

Nguyễn Tường Lân -hậu duệ đời thứ 7 của Quận công Nguyễn Văn Thành

 

41

Chuyên đề về danh nhân Nguyễn Văn Thành

 

Tạp chí xưa và nay

 

487(5-2017)

42

Thơ: Công thần khai quốc Nguyễn Văn Thành (kính viếng đại công thần Nguyễn Văn Thành)

Tác giả: Trần Minh Hiền

 

 

43

Người cho xây dựng Cột cờ hà nội

Lê Tiên Long  

20/02/2018

44

Vị tổng trấn cho xây Khuê văn các, chợ Đồng Xuân và Cột cờ Hà Nội

Lê Tiên Long

 

45

Ngôi đình 200 năm tuổi và nỗi oan của vị công thần

VietnamNet

(01/02/20)

46

Hậu duệ quận công Nguyễn Văn Thành trên đất An Khê tỉnh Gia Lai

Báo Gia Lai Online

 

47

Phim tài liệu: “Ánh Sao Khuê soi rọi tấm lòng xưa”

Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội

2022

48

“Bí ẩn” danh tính người phò tá Nguyễn Ánh lên ngôi

Tập chí doanh nghiệp Việt Nam 07/02/2020

 

49

Hai vụ nghi án trong lịch sử phong kiến Việt Nam

Tác giả Đào Trinh Nhất (trích trong tác phẩm: Con trời ngã xuống đất đen)

 

50

Vũ trinh – con người tài hoa nhưng cuộc đời lận đận

Tác giả Trần Viết Điền

2022

51

Sắc gia ân cho vị tổng trấn bắc thành - Nguyễn Văn Thành

Lưu Dung đăng trên web Bảo tàng Hà Nội

2018

52

Tổ Phi Lai Hòa Thượng Thích Chí Thiền (1861-1933)

Nguyễn Ngọc Duy, Hậu duệ đời thứ tám của QC Nguyễn Văn Thành

2013

53

Chi Họ Nguyễn Hưng Yên và bài thơ “Hồi ưởng”

Nguyễn Quang Thái - Hậu duệ đời thứ Bảy của Quận công Nguyễn Văn Thành

2017

54

 

Lịch sử Tổ Đường danh nhân Nguyễn Văn Thành và quần thể lăng mộ tạiThừa Thiên Huế

Nguyễn Văn Thuận, Hậu duệ đời thứ Bảy

2013

55

Đi Tìm Nguồn Gốc Tổ Tiên

PGS-TS Nguyễn Minh Châu – Hậu duệ đời thứ 6 của Tổng Trấn Bắc Thành

2011

56

Truyện kể Dòng họ Nguyễn Quận Công

Tiến sĩ Nguyễn Duy Hưng, Hậu duệ đời thứ sáu của QC NVT

 

2013

57

Tổng luận về Danh nhân Nguyễn Văn Thành

Tiến sĩ Nguyễn Duy Hưng, Hậu duệ đời thứ sáu của QC NVT.

2016

58

Tầm nhìn chiến lược ngoại giao của Nguyễn Văn Thành, đối với Xiêm La và Mãn Thanh, Triều Nguyễn

Đặng Thị Thanh Loan- Tạp chí Sông Hương

12/2018

59

Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Văn Thành (1758-1817)

Luận văn Thạc sĩ của Đặng Thị Thanh Loan

2018

Nội dung các tác phẩm, các bài viết và các tham luận khoa học của hậu thế đều đưa ra những chứng cứ xác thực, những bình luận và đánh giá nhằm khẳng định đóng góp to lớn của Tổng Trấn cho Bắc Thành nói riêng và cho dân tộc Việt Nam vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX nói chung. Đóng góp to lớn của Tổng trấn Nguyễn Văn Thành được thể hiện theo các chủ đề sau:

Thứ nhất, Ngài Tổng Trấn là người có công lớn trong việc quản lý, ổn định về chính trị, trật tự xã hội Bắc Thành. Một trong những đóng góp nổi bật của Ngài Tổng Trấn về chính trị là đã có nhiều hành động để bảo vệ vùng biên giới phía Bắc của Tổ quốc. PGS.TS. Lê Đình Sỹ đã trình bày tại HTNVT-2013: “Có thể khẳng định trong thời kỳ giữ trọng trách Tổng trấn Bắc thành, Nguyễn Văn Thành rất có ý thức củng cố việc phòng thủ tuyến biên giới Việt Nam – Trung Quốc. Ông kiên quyết trừng trị số thổ phỉ từ Trung Quốc tràn sang quấy phá, cướp bóc các trấn sát vùng biên giới phía Bắc, bảo vệ đời sống yên bình cho người dân biên giới”;

Ngài Tổng Trấn luôn tâm niệm phải đảm bảo đời sống của người dân: thương dân, lo cho dân, luôn ý thức được trách nhiệm của mình là chăm lo đến công việc sản xuất nông nghiệp giúp người dân tránh được “Giặc đói” (Nhất niên thụ mộc). Việc đầu tiên mà vị Tổng trấn đã làm khi nhậm chức Tổng Trấn là chiêu tập dân xiêu tán ở Bắc Thành về quê cũ sinh sống để ổn định sản xuất nông nghiệp. Để nông nghiệp thuận lợi, thì công việc khẩn thiết là phải quan tâm tới vấn đề thủy lợi tưới tiêu, trị thủy sông Hồng. Tháng 5 năm Quý Hợi (1803), Nguyễn Văn Thành dâng tấu về triều đình rằng: “Thế nước sông Nhị Hà rất mạnh, đê bên tả, bên hữu ven sông thuộc Sơn Tây, Kinh Bắc, Sơn Nam Thượng, Hạ nhiều chỗ vỡ lở, xin thuê dân sửa đắp đê chống lụt mùa thu. Lại thủy đạo các trấn nhiều nơi ứ tắc, xin hạ lệnh cho trấn thần tùy thế khơi vét”. Theo Đại Nam thực lục chính biên: Năm Kỷ Tị 1809, Thiên tai lũ lụt đê vỡ, người dân chịu cảnh bần hàn, cơm không có ăn, áo không có mặc, ông dâng sớ tâu: "Nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm đầu. Sau khi các trấn bị thiên tai, nhân dân ngày càng đói lắm, xin bàn cách phát chẩn và cho vay để đỡ túng quẫn cho dân"; Vua đều nghe theo;

Trong Đại Nam liệt truyện do Sử thần Quốc sử quán triều Nguyễn có ghi: “Đến lúc Bắc Hà đã định, một mình đương công việc Tổng trấn không động đến lời nói, nét mặt, mà trộm giặc đều yên, bày mưu chốn miếu đường, bày tâu sự nghị đều được thi hành, có thể gọi là người có mưu giỏi trị nước”

Thứ hai, trong thời gian làm Tổng Trấn, Nguyễn Văn Thành rất quan tâm đến công tác phát triển văn hóa giáo dục của Bắc Thành. Trong tham luận tại HTNVT-2013, PGS.TS. Tạ Ngọc Liễn viết: “Rõ ràng trong khi xây dựng nền giáo dục Nho học thời kỳ đầu triều Nguyễn, Nguyễn Văn Thành đã có vai trò của một nhà kiến trúc sư tài giỏi và tâm huyết. Vì mới xây dựng chế độ học hành thi cử, ngoài học quy Nguyễn Văn Thành còn chú trọng tăng cường người lãnh đạo giáo dục khoa cử ở các trấn” . Tháng 5 năm 1803, Nguyễn Văn Thành lấy Thị trung học sĩ Phạm Quý Thích lãnh chức Đốc học Phụng Thiên; Tháng 3 năm Giáp Tý (1804), Nguyễn Văn Thành xin triều đình ban học quy cho các thành và các dinh, trấn. Vua Gia Long chuẩn định lời tâu, bèn sai Tham tri bộ Hình là Nguyễn Thế Trực, và viên quan ở Quốc Tử giám là Nguyễn Viết Ứng soạn định những bài mẫu mới về Kinh nghĩa và Văn sách để ban bố thi hành.

Thứ ba, là trong thời gian nhận trọng trách Tổng trấn Bắc Thành, Nguyễn Văn Thành đã có công lao rất lớn trong việc xây dựng thành Thăng Long, với sự kiện này, Ngài Tổng Trấn đã góp công sức tạo dựng cho Cố đô Thăng Long xưa, Thủ đô Hà Nội nay hai công trình kiến trúc có tính biểu tượng cho mảnh đất nghìn năm văn hiến; đó là: Kỳ đài Thăng Long và Cửa Bắc thành Hà Nội. Tháng 8 năm Ất Sửu (1805), với ý tưởng đề cao đạo học và cổ xúy, khích lệ tinh thần kẻ sĩ Bắc Hà noi theo con đường khoa cử, Ngài Tổng Trấn cho xây dựng Khuê Văn Các tại Văn Miếu quốc tử giám. Đây là công trình độc đáo có tính văn hóa và nghệ thuật cao điểm tô thêm nét văn hiến cho Thăng Long – Hà Nội.

Thứ tư, thời kỳ Nguyễn Văn Thành làm quan ở Kinh đô Phú Xuân. Năm 1810, thân mẫu của Ngài Tổng Trấn qua đời, Ông đưa Linh cữu mẹ về an táng ở Thừa Thiên Huế và làm quan tại Kinh đô. Những năm ở Kinh đô Phú Xuân, Quận công Nguyễn Văn Thành còn lưu đậm dấu ấn trong lịch sử dân tộc khi ông dâng tấu xin thành lập Quốc sử quán và được Nhà vua chấp nhận và giao cho ông chức Tổng tài, một vị quan đứng đầu trong Quốc sử quán Triều Nguyễn. Tháng Giêng năm Tân Mùi (1811), vua Gia Long đã xuống dụ, sai Nguyễn Văn Thành sung chức Tổng tài, cùng với Vũ Trinh, Trần Hựu soạn bộ Hoàng Việt Luật Lệ (thường được gọi là luật Gia Long). Việc soạn Hoàng Việt Luật Lệ bắt đầu từ tháng 2 năm 1811 và đến tháng 8 năm 1812 thì hoàn tất.

Tháng giêng năm 1812, tiền quân Nguyễn Văn Thành được sung chức Tổng tài trong việc biên soạn Quốc Triều Thực Lục. Như vậy trong cùng một khoảng thời gian, ông đã kiêm nhiệm hai chức Tổng tài để biên soạn 2 bộ Luật.

2. Di sản vật thể còn hiện hữu về Ngài Tổng Trấn

Trên 200 năm sau khi Tổng trấn Bắc Thành qua đời, nhiều công trình kiến trúc đã được phục chế, cải tạo và xây mới, thể hiện trách nhiệm, tấm lòng của hậu thế đối với vị Tổng trấn Bắc Thành.

a. Hoàng thành Thăng Long trong thời kỳ Triều Nguyễn (thành Hà Nội) do Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành trông coi xây dựng giai đoạn từ năm 1804 và 1810 (quy mô, kiến trúc của Thành Hà Nội đã được giới thiệu tại Mục A, trang 4). Từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 trở lại đây, Thăng Long - Hà Nội trở thành Thủ đô của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy hình thức, quy mô đã có nhiều thay đổi, biến dạng, nhưng được sự quan tâm đặc biệt của Chính phủ và Thủ đô Hà Nội nên di tích đã được tu bổ, sửa chữa theo hướng nguyên trạng. Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long (trong đó có Thành Hà Nội) được tổ chức UNESCO của Liên hiệp quốc công nhận là di sản văn hóa thế giới năm 2010.

ANH

b. Khuê Văn Các do Ngài Tổng trấn xây dựng vào 9/1805:

Đây là một công trình kiến trúc có giá trị độc đáo về khía cạnh văn hóa và mỹ thuật và được Thủ đô Hà Nội chọn làm Biểu tượng chính thức của Thủ đô Hà Nội năm 2012 và được Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật Thủ đô công nhận hình ảnh Khuê Văn Các là biểu tượng của Thủ đô văn hiến. Biểu tượng Khuê Văn Các (thể hiện cho sự đề cao giá trị của tri thức, học vấn) đã tạo dấu ấn cho bao thế hệ người Việt nói chung và mọi người dân Thủ đô Văn hiến nói riêng. Biểu tượng Khuê Văn Các đã được nhiều tổ chức, cá nhân chọn làm logo cho đơn vị mình: Theo thống kê chưa đầy đủ tại Hà Nội ngoài một số Sở, Ngành thiết kế logo trên cở sở sử dụng biểu tượng Khuê Văn Các, còn trên 500 trường học (bao gồm Đại học, Cao đẳng, Trung cấp, GDTX, THPT, THCS, Tiểu học…) đã thiết kế logo trên cơ sở chọn lõi là biểu tượng Khuê Văn Các.

c. Lăng mộ quan Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành

Khu lăng mộ của quan Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành nằm trên một vùng đồi của làng quê ven đô là Dạ Lê Thượng thuộc phường Thủy Phương, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa thiên – Huế (Lăng mộ này được di dời từ vị trí khác do Chính quyền tỉnh thu hồi khu đất để xây dựng Trường Trung cấp Giao thông vận tải của tỉnh).Trên bức bia tiền ở khu lăng mộ mới còn ghi rõ sự phụng lập của dân làng Dã Lê Thượng với dòng chữ khắc trên bia đá: “Việt cố khâm sai, Trưởng Trung quân, Bình Tây đại tướng quân Thành Quận công chi mộ”

Trên Bức bia hậu ghi tóm tắt tiểu sử công trạng cùng tên tuổi gia quyến của Trung Quân, Tổng trấn Nguyễn Văn Thành, đặc biệt trên bia còn khắc cảnh Xuân Hạ Thu Đông và các hoa văn tượng trưng cho uy quyền và đức độ của ngài khi xưa.

d. Nhà thờ Nguyễn tộc ở thôn Bác Vọng Tây, xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế ngay cạnh chùa Thiện Khánh. Dân trong làng cho biết, do hoàn cảnh của Ngài (Tổng trấn Nguyễn Văn Thành) vướng vụ án oan nên con cháu của Ngài ở làng Bác Vọng lúc đó đã đốt gia phả và đi tứ tán khắp nơi. Trong thời gian chưa được minh oan, con cháu của Ngài chỉ dùng họ Nguyễn, không lấy chữ “Văn” làm chữ lót. Năm 1868, sau khi vua Tự Đức ban chiếu gia ân minh oan cho Nguyễn Văn Thành đã cấp 12 mẫu ruộng tự điền cho dòng họ để lấy đó hằng năm lo liệu việc thờ tự.

e. Từ đường Họ Nguyễn Quận công: Số 80/11 đường Nguyễn Lộ Trạch, Phường Xuân Phú, T. phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế . Từ đường Họ Nguyễn Quận công xây dựng trên mảnh đất do bà Nguyễn Thị Viện con gái trưởng của Tổng Trấn Nguyễn Văn Thành hiến tặng. Trông coi thờ tự tại Từ đường là ông Nguyễn Văn Thuận - cháu trực hệ của Ngài Tổng trấn. Từ đường được xây dựng theo lối cổ đã trải qua trên 200 năm và nhiều lần sửa chữa do mối mọt. Năm 2018, thể theo nguyện vọng của các thế hệ Hậu duệ của Ngài Tổng Trấn, ngôi Từ đường đã được các hậu duệ từ mọi miền tổ quốc đóng góp để trùng tu lớn và mở rộng diện tích xứng tầm với vị thế, công lao của Ngài Tổng trấn Nguyễn Văn Thành đối với dòng họ và đất nước.

Hiện Anh Thuận (hậu duệ đời thứ 7 của Tổng trấn) còn lưu giữ Sắc Gia ân của vua Tự Đức và nhiều sắc phong của Nhà vua ghi nhận công lao của các hậu duệ của Ngài có công với đất nước. Cứ dịp húy kỵ quan Tổng trấn hàng năm (từ ngày 9 đến 11/5 âm lịch) hậu duệ của Ngài từ mọi miền của Tổ quốc lại nô nức về thăm quê hương, viếng Lăng mộ Ngài và cùng nhau dâng hương tưởng niệm đức Ngài.

g. Đình Tân An thuộc phường Tân An, thành phố Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương.

Đình có tên chữ "Tương An Miếu", do những lớp cư dân đầu tiên đến vùng đất xã Tương Hiệp, Tương An, Tương Hoà và Cầu Định lập nên. ​Năm 1869, Vua Tự Đức ban sắc phong công nhận ngôi đình và phong tước hiệu cho thần Thành Hoàng để nhân dân thờ tự vào năm Tự Đức thứ 21(1869). Vị thần được thờ chính trong đình là Tiền quân Nguyễn Văn Thành (một vị quan triều đình nhà Nguyễn) - Người có công vận động các lớp cư dân đầu tiên (gia đình các binh lính của Tổng trấn) về đây lập nghiệp sinh sống. Về kiến trúc ngôi đình được làm toàn gỗ Sao, hình chữ Tam, có lối chạm trỗ điêu khắc độc đáo, mang đậm phong cách kiến trúc nghệ thuật của một ngôi đình Nam Bộ xưa, đến nay còn lưu truyền nếp sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian và các nghi thức thờ cúng truyền thống của đình làng Việt Nam. Hàng năm cứ vào ngày 13-14-15 tháng 11 âm lịch (Ngày sinh của Tổng trấn Nguyễn Văn Thành), người dân địa phương tổ chức​ Lễ hội Kỳ Yên để người dân địa phương tới thắp hương cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu...

​Đình Tân An được Nhà nước cấp bằng xếp hạng Di tích kiến trúc - nghệ thuật cấp quốc gia năm 2014 (QĐ số 1261/QĐ-BVHTTDL ngày 26/4/2014).

g. Đình Tân An thuộc phường Tân An, thành phố Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương.

 Đình có tên chữ "Tương An Miếu", do những lớp cư dân đầu tiên đến vùng đất xã Tương Hiệp, Tương An, Tương Hoà và Cầu Định lập nên. 

​Năm 1869, Vua Tự Đức ban sắc phong công nhận ngôi đình và phong tước hiệu cho thần Thành Hoàng để nhân dân thờ tự vào năm Tự Đức thứ 21(1869). Vị thần được thờ chính trong đình là Tiền quân Nguyễn Văn Thành (một vị quan triều đình nhà Nguyễn) - Người có công vận động các lớp cư dân đầu tiên (gia đình các binh lính của Tổng trấn) về đây lập nghiệp sinh sống. Về kiến trúc ngôi đình được làm toàn gỗ Sao, hình chữ Tam, có lối chạm trỗ điêu khắc độc đáo, mang đậm phong cách kiến trúc nghệ thuật của một ngôi đình Nam Bộ xưa, đến nay còn lưu truyền nếp sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian và các nghi thức thờ cúng truyền thống của đình làng Việt Nam. Hàng năm cứ vào ngày 13-14-15 tháng 11 âm lịch (Ngày sinh của Tổng trấn Nguyễn Văn Thành), người dân địa phương tổ chức​ Lễ hội Kỳ Yên để người dân địa phương tới thắp hương cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu...​Đình Tân An được Nhà nước cấp bằng xếp hạng Di tích kiến trúc - nghệ thuật cấp quốc gia năm 2014 (QĐ số 1261/QĐ-BVHTTDL ngày 26/4/2014).

h. Thạch thần tướng quân miếu là ngôi miếu cổ, nằm tại số 2, đường Nhật Lệ, ngay góc ngã tư đường Phùng Hưng và Nhật Lệ (TP Huế). Miếu này thờ Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt là 2 danh tướng đời Vua Gia Long. Ngôi miếu xây dựng đơn giản với bình đồ chữ nhật cỡ 5x7 mét. Một cửa giữa bốn lá và một cửa hông. Liên ba giữa có hoành phi với 4 chữ Hán thếp vàng “名 高 天 古” (danh cao thiên cổ), có lạc khoản “愷 定 十 年…” (Khải Định thập niên) cho biết bức hoành có niên đại 1825, với nội dung ca ngợi hai vị đại công thần. Bài vị trước tượng có dòng lạc khoản, chỉ ngày tháng bắt đầu an vị tượng thờ: “嘉 隆 …十 六 年 五 月 八 日…” (Gia Long… thập lục niên ngũ nguyệt bát nhật…” (Gia Long năm thứ 16, ngày 28 tháng 5…). Tượng Lê Văn Duyệt với mũ quan võ. Bài vị trước tượng có dòng lạc khoản “明 命 …十 三 年 七月” ( Minh Mạng năm thứ 13 tháng 7…). Như vậy từ mùa hạ năm 1817, sau khi Nguyễn Văn Thành quyên sinh, vua Gia Long đã cho dựng miếu, tạc tượng, lập bài vị để thờ vị đại công thần này. Còn đại công thần Lê Văn Duyệt, sau khi ông mất vào năm 1832, vua Minh Mạng cho tạc tượng, lập bài vị cho vị đại công thần này và an vị vào miếu thờ Nguyễn Văn Thành. Ngôi miếu đã trải qua bao mưa nắng, chiến tranh liên miên và đã được chính quyền cho tu sửa nhiều lần. Tuy nhiên, do ý thức của người dân sở tại và chính quyền địa phương thiếu quan tâm nên ngôi miếu này hiện nay đang xuống cấp.

Trong Miếu Thạch thần tướng quân thờ 2 pho tượng: Bên trái là tượng

 Tả quân Lê Văn Duyệt, bên phải là tượng Trung quân Nguyễn Văn Thành.

i. Đình Thái Hưng, phường Phạm Ngũ Lão, quận I, T.P Hồ Chí Minh

Đình Thái Hưng hay còn gọi là Đình Cầu Quan do dân hai làng Thái Bình và Thái Hưng, huyện Bình Dương, tỉnh Gia định xây dựng vào những năm đầu của thế kỷ XX (Đình nằm sát ngay cây cầu bắc qua con lạch nhỏ nên được gọi là Đình Cầu Quan). Cụ Nguyễn Văn Bành - Cụ Cố của ông Nguyễn Minh Châu mua đất từ năm 1906 và hiến đất để xây Đình. Cụ cố Nguyễn Văn Bành đã thay mặt cho bà con làm hồ sơ xin phép xây dựng ngôi đình 3 gian trên mảnh đất gia đình hiến tặng (Gia đình còn lưu giữ giấy phép do nhà nước phê duyệt ngày 3/9/1910); Do chiến tranh tàn phá, ngôi đình bị hư hỏng nặng, đến năm 1921, Cụ cố Nguyễn Văn Bành lại một lần nữa cho thiết kế và xây dựng lại Đình Thái Hưng với diện mạo như ngày nay (hiện gia đình còn lưu giữ bản vẽ và ý kiến phê duyệt của chính quyền địa phương cấp ngày 7/10/1921). Hiện nay Đình Thái Hưng vẫn lưu giữ sắc thần do Vua Tự Đức ban ngày 29/11 âm lịch năm Tự Đức thứ 5 (1852) . Hằng năm nhân dân địa phương thưởng tổ chức Lễ Kỳ Yên Đình Thái Hưng vào ngày 11 và 12/2 âm lịch để dân trong vùng tới dâng hương cho Đức Ngài cầu cho quốc thái dân an, mùa màng tươi tốt, người dân no đủ.

Lễ hội Kỳ Yên Đình Thái Hưng có tục lệ: Ngày 11/2 làm lễ rước Sắc Thần từ gia đình ông Nguyễn Minh Châu sang Đình Thái Hưng, kết lúc lễ hội lại rước Sắc Thần từ Đình về Nhà ông Nguyễn Minh Châu. Điểm nổi bật trong lễ hội là chương trình biểu diễn những tích Tuồng cổ rất đặc sắc do các nghệ sĩ của Đại gia tộc Bầu thắng - Minh tơ trình diễn.

 

 


k.Từ đường Họ Nguyễn Quận công thôn Tràng - xã An Tràng - Quỳnh phụ - Thái Bình

  Năm 1868 vua Tự Đức ban chiếu gia ân cho Tổng Trấn NVT, cháu nội ngài Tổng trấn là Nguyễn Ngọc Tiên được bổ nhiệm chức Lãnh Binh Nam Định. Từ đường Chi phái được xây dựng trong dinh quan lãnh binh: số 285, phố Hàng Song Nam định, nay là phố Minh khai thành phố Nam định. Trải qua bao biến động của lịch sử và chiến tranh tàn phá, ngôi từ đường bị bom Mỹ đánh sập, con cháu cụ tản cư sang tỉnh Thái Bình, Hưng Yên. Do kinh tế khó khăn nên việc Thờ cúng gia tiên còn sơ sài. Năm 2003 thể theo nguyện vọng của con cháu ngài Tổng trấn, Từ đường Quận Công được xây dựng trên khuôn đất 18x50 = 900 m2. Từ đường lớn bước vào cổng, tiếp theo là chiếc cầu bê tông sơn màu đỏ tía (lấy mẫu Cầu Thê Húc, Hồ Hoàn Kiếm, HN) bắc qua hồ nước rộng tới sân và tới tòa Từ đường diện tích 10m x 70 m = 70 m2.

 

Hàng năm, vào ngày 10 và 11/05 âm lịch, Chi phái Họ Nguyễn Quận Công An Tràng, Quỳnh Phụ Thái Bình lại tổ chức ngày Giỗ Tổ. Con cháu dù đi làm ăn xa từ Quảng Ninh, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hưng Yên… đều có mặt đông đủ để dựng rạp, nấu cỗ, mua sắm những hoa quả tươi ngon nhất, đẹp nhất, quý nhất về dâng trước Tổ đường. Anh Nguyễn Văn Phúc, anh Nguyễn Văn Hoan hậu duệ đời thứ bảy trực tiếp nổi trống, gõ chuông theo nhịp điệu trầm hùng, giòn dã, thiêng liêng quyện với khói hương trầm thơm ngát; Theo đó các vị cao niên trong họ (hậu duệ đời thứ sáu) trang trọng những bộ áo dài bước tới dâng hương. Vị Trưởng tế dõng dạc đọc bài văn tế Tổ Họ Nguyễn Quận Công.

Trong bài văn tế đã diễn tả những khó khăn thời kỳ Ngài Tổng trấn còn trẻ theo Cha đi đánh giặc, trải qua bao trận đánh lập được nhiều công lớn với Triều đình. Ngài đã có công giúp dân khai phá rừng hoang, xây nhà lập ấp mở mang cơ nghiệp cho nhân dân vùng Bình Dương, vùng Dã Lê thượng, Dã Lê hạ tỉnh Thừa Thiên Huế…

Trong bài Văn Tế Tổ Họ Nguyễn Quận công có đoạn viết:

“ Nhớ Tiên linh xưa:

Buổi sơ khai: Phò Minh chúa xông pha trận mạc, màn trời chiếu đất, dãi gió, dầm sương, luyện binh pháp, tích trữ lương cùng binh lính vào sinh ra tử nơi chiến trường;

Khi yên hàn: Dạy muôn dân san đồi lấp trũng, phát rẫy làm nương, chăm lo cày cấy, dựng nhà, lập ấp, thôn đông vui tiến bộ, cùng muôn dân an hưởng thái bình;

Lúc loạn li: thống lĩnh ba quân dùng kế hay đánh giặc, dùng mẹo giỏi giúp Triều Đình dẹp tan giặc trong, giặc ngoài thống nhất Giang sơn mang lại nghiệp lớn cho oai linh muôn thuở.

Ngày khải hoàn: dâng kế sách an dân giúp Quốc gia dựng Hoàng Thành Thăng Long, Khuê Văn Các, dựng Kỳ đài, dâng Hoàng Việt luật lệ, để dòng máu Lạc hồng lưu danh mãi muôn đời.”

Các thế hệ hậu duệ của Ngài Tổng trấn đều bái lạy trước án thờ và hằng ghi xương khắc cốt truyền thống hiển hách của Tổ tiên, nguyện học tập, phấn đấu phát huy truyền thống dòng họ. Hiện nay hậu duệ của Ngài Tổng trấn lưu giữ gia phả dòng họ, phục dựng 2 quả ấn theo nguyên mẫu (Ấn Tiền quân và ấn Tổng trấn Bắc Thành); In ấn Bộ Hoàng Việt Luật lệ (chữ Hán và Chữ Việt lưu hành nội bộ trong dòng Họ Nguyễn để Hậu duệ luôn luôn tưởng nhớ công lao của Ngài);

l. Từ đường Họ Nguyễn quận công tại tỉnh Gia lai: Ông Nguyễn Văn Thọ (Bảy Thọ) người làng Suối cọp, xã Yang Bắc, huyện Đăkpơ, tỉnh Gia lai cũng là một chi phái Họ Nguyễn Tổng Trấn, do phả đồ bị thất lạc nhưng gia đình ông vẫn thường xuyên về chạp Tổ tại Từ đường Huế. Vốn liếng làm ăn chẳng có nhiều nhưng ông quyết định bán xe ô tô dành tiền xây nhà thờ Tổ để con cháu trong chi phái hương hoa viếng Tổ tiên.

 

 

m. Từ đường Họ Nguyễn Quận công tại Tân Châu, An Giang: Chi phái Họ Nguyễn Tổng Trấn này đã đổi thành Họ Trần;

n. Từ đường Họ Nguyễn Quận Công tại Bình Định: Hiện chưa xác định được chi phái Họ Nguyễn Tổng Trấn thuộc hàng thứ mấy, hậu duệ của phái này xây dựng Từ đường ở Khối 1, Thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.

o. Từ đường Họ Nguyễn quận công, Xã Phước Ân, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.

Kết luận:

Tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp của Tổng Trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành, chúng ta thấy rất rõ ở ông, đó là một con người có đầy tài năng và đức độ. Trong bất cứ cương vị nào, ông cũng đem hết nhiệt huyết của mình, để hoàn thành tốt nhất trọng trách được giao. Đặc biệt, cuộc đời hoạt động của ông đã để lại cho hậu thế biết bao bài học quý giá: lòng yêu nước, thương dân; cư xử bao dung, chân thành với bạn bè, đồng liêu, cấp trên, cấp dưới. Và điều đặc biệt ông đã để lại những di sản vô giá cho dân tộc Việt Nam và cho Thủ Đô yêu dấu: Hoàng Thành Thăng Long, Cổng thành Cửa Bắc, Cột cờ Hà Nội, Chợ Đồng Xuân, Khuê Văn Các, Bộ Hoàng Việt Luật Lệ…Chúng tôi những hậu thế của Người rất mong các di tích vô giá đó luôn được Nhà nước Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Thành phố Hà Nội và mọi người dân luôn quan tâm chăm sóc, tu bổ và giáo dục thế hệ trẻ biết giữ gìn những giá trị lịch sử mà Tổng trấn Nguyễn Văn Thành đã để lại để các di tích đó Như Sao Khuê tỏa sáng mãi trên bầu trời Việt Nam.

Chúng tôi cũng mong muốn rằng Thủ Đô Hà Nội sớm đặt tên đường phố mang tên danh nhân Nguyễn Văn Thành và chọn một địa điểm trang trọng để xây dựng Nhà lưu niệm Nguyễn Văn Thành (lưu giữ những di sản vật thể, phi vật thể) để giáo dục truyền thống cho các thế hệ noi theo và cũng là nơi sinh hoạt tâm linh để mọi người dân cũng như thế hệ trẻ Việt Nam những dịp lễ hội sẽ đến Nhà lưu niệm thắp hương tưởng nhớ Ngài Tổng trấn Nguyễn Văn Thành./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Đại Nam thực lục của tập thể Sử quán Triều Nguyễn;

2. Đại Nam chính biên liệt truyện của Nguyễn Trọng Hợp;

3. Đại Nam nhất thống chí của tập thể Sử quán Triều Nguyễn;

4. Quốc sử di biên của Phan Thúc Trực;

5. Bắc thành địa dư chí lục do Lê Công Chất tổ chức biên soạn;

6. Thăng Long thập cửu vịnh của Phạm Đình Hổ;

7. Hà Thành thi sao do Đỗ Thị Hảo chủ biên;

8. Danh mục các tác phẩm, các tham luận viết về Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành (59 bài viết)