LỜI GIỚI THIỆU

Website  honguyenquancong.com là kênh thông tin chính thức của dòng họ

Nguyễn Huế - Gia Định, là diễn đàn trao đổi giữa các chi họ Nguyễn trong

và ngoài nước. Ban quản trị Website mong muốn nhận được bài viết, hình

ảnh về các hoạt động của các chi họ để trang Web thêm phong phú, đa dạng.

Mọi thông tin xin gửi về địa chỉ Email: honguyenquancong@gmail.com hoặc

duyhung12258@gmail.com. 

Dòng họ Nguyễn An Giang

Dựa theo bài viết đăng trên trang website: tanchauxulua.com

Xưa nay, chúng ta đã được học và biết khá nhiều về Tả Quân Lê Văn Duyệt, Tổng trấn thành Gia Định, một công thần nhà Nguyễn. Nhưng thật thiếu xót khi nhắc đến công thần, những người đã giúp Nguyễn Phúc Ánh gây dựng giang sơn, thống nhất nước Việt Nam mà không nói đến đức Tiền Quân Nguyễn Văn Thành, Tổng trấn Bắc Thành thời bấy giờ. Ông là người chẳng những công lớn hơn, mà xem ra tài đức cũng cao hơn so với Lê Văn Duyệt. Bắc Thành từng là cố đô Thăng Long, nơi qui tụ hiền tài chí sĩ, là một vị trí địa lý quan trọng cả nước. Việc Gia Long chọn ông làm tổng trấn cai quản Bắc Thành cho thấy ông là người thật sự tài đức. Chúng ta thử tìm hiểu cuộc đời, thân thế, sự nghiệp và sự kiện về nổi oan mà đức Tiền Quân nhà Nguyễn này đã gánh chịu, để rồi dẫn đến một kết cuộc bi thảm cho cả một dòng họ.

Nguyễn Văn Thành là một trong những vị khai quốc công thần của triều Nguyễn và là một trong những người có công lớn nhất trong việc đưa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi, trở thành vị vua đầu tiên của triều Nguyễn (vua Gia Long) - triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam (1802-1945).

I. Thân thế

Nguyễn Văn Thành sinh năm Mậu Dần (1758), tiên tổ của ông người Quảng Điền, phủ Thừa Thiên, tằng tổ là Nguyễn Văn Toán dời vào Gia Định. Tổ là Nguyễn Văn Tính lại dời đến ở Bình Hòa. Cha là Nguyễn Văn Hiền lại dời vào Gia Định. Sử cũ ghi:

- Nguyễn Văn Thành trạng mạo đẹp đẽ, tính trầm nghị, thích đọc sách, tài võ nghệ.

- Năm 1773, ông cùng cha ra tận đất Phú Yên ngày nay để theo Định Vương Nguyễn Phúc Thuần, chống Tây Sơn.

- Năm 1775, tháng 7 âm lịch, Phú Yên bị đánh úp, cai đội Nguyễn Văn Hiền tử trận.

- Năm 1778, ông theo Nguyễn Văn Hoàng đóng đồn ở Phan Rí. Khi Nguyễn Văn Hoàng mất, Nguyễn Ánh cho triệu ông về.

II. Đôi nét về sự nghiệp

- Năm Bính Ngọ (1786), ông cùng Lê Văn Quân giúp Xiêm đánh tan quân Miến Điện ở Sài Nặc (trên đất Xiêm), vua Xiêm thán phục trở về đem vàng, lụa đến tạ, lại ngỏ ý một lần nữa giúp quân cho Nguyễn Ánh thu phục Gia Định. Nguyễn Ánh triệu chư tướng hội bàn, ông tâu rằng: "Vua Thiếu Khang chỉ một lữ còn dựng được cơ đồ nhà Hạ. Ta nuôi sức mạnh mà thừa chỗ sơ hở thì việc có thể làm được, lính Xiêm tàn ngược, không nên nhờ họ giúp, nếu nhờ binh lực họ mà thành công lại có sự lo sau, không bằng cứ yên tĩnh để chờ cơ hội là hơn". Vua cho phải, việc ấy bèn thôi.

- Năm 1787, vào mùa thu, Đại Nam Liệt Truyện ghi: ...trận đánh ở Mỹ Tho, quân ta thất lợi. Hoặc có người bảo Thành về ẩn quê nhà, để đợi thời cơ. Thành nói rằng: "Nghĩa cả vua tôi sống chết vẫn theo đi, sự thành bại nhờ trời, ta đoán trước sao được, và nhân bị quở mà đi, nhân thua mà trốn là phản phúc, tiền nhân ta không làm thế."

- Năm 1801, ông lãnh ấn Khâm Sai Chưởng Tiền Quân, Bình Tây Đại Tướng Quân, tước Quận Công.

- Ông là người "biết chữ, hiểu nghĩa sách, biết đại thể, ở trong chư tướng, vua trọng Thành hơn cả, không cứ việc lớn việc nhỏ đều hỏi để quyết đoán. Mỗi khi ông đến chầu vua cho ngồi thong dong hỏi han, ông cũng đem hết sức tiềm tàng, tình hình ngoài biên, sự đau khổ của dân, kế hoạch nhà nước, mưu kế việc binh, biết điều gì là nói hết, cũng nhiều bổ ích".

Về tài cầm binh của ông, theo nhiều nhà nghiên cứu thì ông là người "phân tích kĩ lưỡng, đâu là điểm mạnh, đâu là thế yếu, rồi mới quyết đoán, lúc tiến, khi lui nhằm giảm thiểu hao tổn tướng sĩ".

- Năm 1802, vua Gia Long nghĩ Bắc Hà mới bình định, dân vật đổi mới, cố đô Thăng Long lại là trung tâm của Bắc thành với nghìn năm văn hiến đồng thời cũng là nơi đã từng chứng kiến bao cuộc thăng trầm của lịch sử dân tộc, nên được trọng thần để trấn thủ bèn phong cho ông làm Tổng trấn Bắc thành, còn vua trở về kinh đô Phú Xuân (tức Huế ngày nay). Ban cho sắc ấn trong ngoài mười một trấn đều thuộc vào cả, các việc truất nhắc quan lại, xử quyết việc án, đều được tiện nghi làm việc, sau mấy năm mà đất Bắc Hà được yên trị.

- Vào tháng Chạp năm 1802, tại Thuận Hóa, ông đứng chủ tế ở lễ truy điệu các tướng sĩ bỏ mình trong cuộc chiến giữa Nguyễn Ánh với lực lượng Tây Sơn. Ông đã soạn bài Văn Tế Tướng Sĩ Trận Vong, lúc tế ông đọc bài văn này, lấy cái cảm tình của một ông võ tướng mà giải bày công trạng anh hùng của kẻ đã qua, thổ lộ tấm lòng thương tiếc của người còn lại, lời văn thống thiết, giọng văn hùng hồn, đây thật là một áng văn chương tuyệt bút của nền văn học Việt Nam.

- Năm 1805, ông cho xây dựng Khuê văn Các tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội.

- Năm 1809, gặp Bắc Thành dân đói, ông dâng sớ tâu: "Nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm đầu. Sau khi các trấn bị thiên tai, nhân dân ngày càng đói lắm, xin bàn cách phát chẩn và cho vay để đỡ túng ngặt cho dân". Vua đều nghe theo.

- Năm 1810, ông được triệu về kinh, lãnh ấn Trung Quân, rồi được giao cử chức tổng tài trong việc soạn bộ Hoàng Việt Luật Lệ (thường được gọi là luật Gia Long). Bộ luật có hai phần, chia làm hai mươi hai quyển, có tất cả ba trăm chín mươi tám điều, ban hành năm 1812, đến năm 1815 được khắc in và định Quốc Sử. Hoàng Việt Luật Lệ là bộ luật đầy đủ và hoàn chỉnh nhất lúc bấy giờ.

Học giả người Pháp tên là Philastre khi đến Việt Nam vào giữa thế kỷ 19 là người am tường Hán học, lịch sử, phong tục, tín ngưỡng và các thể chế của nước Nam, đã nghiên cứu, phân tích, so sánh những điểm giống và khác nhau giữa bộ luật Gia Long với các bộ luật Trung Hoa, nhất là với bộ luật nhà Thanh.

 Trước khi ban hành, Nguyễn Văn Thành có dâng sớ tâu lên vua Gia Long, trong sớ ông trình bày về việc: "...đặt lại quy tắc khoan hồng và thưởng phạt. Khi xem đến luật triều Thanh, đức Thánh thượng nhận thấy đó là bộ luật gồm đủ các sắc luật của các triều đại trước, nên ban sắc chỉ dạy các quan đem ra bàn bạc, xem xét cùng hạ thần ngỏ hầu chọn lấy những gì khả dĩ soạn thành bộ luật riêng để dùng trong nước... Sách đã dạy: Trừng phạt để về sau không còn phải trừng phạt nữa, đặt ra tội hình để về sau không còn phải dùng đến tội hình nữa. Điều đó há chẳng phải là điều mà Đức Thánh thượng hằng mong muốn hay sao?"

III. Vụ án có nguồn gốc từ một bài thơ

Năm 1815, người con trưởng của ông là ông Nguyễn Văn Thuyên đỗ hương cống, vốn là người hâm mộ văn chương, thường làm thơ, ngâm vịnh văn thơ với những kẻ sĩ. Bấy giờ nghe người ở Thanh Hóa là Nguyễn Văn Khuê và Nguyễn Đức Nhuận có tiếng hay chữ, ông Thuyên có làm bài thơ tặng, thơ rằng:

Văn đạo Ái Châu đa tuấn kiệt,

Hư hoài trắc tịch dục cầu ty. 

Vô tâm cửu bảo Kinh Sơn phác,

Thiện tướng, phương tri Ký-bắc Kỳ. 

U-cốc hữu hương thiên lý viễn, 

Cao vương minh-phượng cửu thiên tri.

Thư hồi được đắc Sơn trung tể,

Tá ngã kinh-luân chuyển hóa ky.

 Dịch nôm là:

Ái-châu nghe nói lắm người hay, 

Ao ước cầu hiền đã bấy nay.

Ngọc phác Kinh-Sơn tài sẵn đó, 

Ngựa Kỳ Ký-bắc biết lâu thay.

Mùi hương hang tối xa nghìn dặm,

Tiếng phượng gò cao suốt chín mây. 

Sơn tể phen này dù gặp gỡ,

Giúp nhau xoay-đổi hội cơ này.

 Một số người vốn có tị hiềm với ông dựa vào hai câu cuối của bài thơ mà lập luận, suy đoán, thêu dệt thành ý phản loạn, truất ngôi vua.

Mọi việc kêu oan của ông đều không được Gia Long minh xét. Ông nói với Thống chế Thị Trung lúc bấy giờ là Hoàng Công Lý : "Án đã xong rồi vua bắt bề tôi chết, bề tôi không chết, không phải là trung”. Ông buộc phải uống thuốc độc tự tử trong ngục vào năm Đinh Sửu (1817), hưởng thọ sáu mươi tuổi. Con trai ông là Nguyễn Văn Thuyên thì bị xử án chém.

Sách Đại Nam Liệt Truyện còn ghi: "...Thành có văn võ tài lược, lâm trận dụng binh mưu lược rồi mới đánh cho nên ít khi thua, lúc đầu trung hưng, công ấy tốt lắm. Đến khi Bắc hà đã định, một mình đương công việc Tổng trấn không động đến lời nói nét mặt mà trộm giặc đều yên, bày mưu chốn miếu đường, bày tâu sự nghị đều được thi hành, có thể gọi là người có mưu giỏi trị nước..."

Năm 1847, Tự Đức nguyên niên, nhà vua truy xét công trạng, lại chiếu giải oan án và phong chức tước cho con cháu Đức Tiền Quân.

IV. Đền thờ

Tại xã Tân An, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, trên cuộc đất cao trong khu rừng sao, ngôi đền thờ đức Tiền Quân được xây dựng từ năm 1820. Toàn bộ khung sườn đền đều làm bằng gỗ sao đốn từ những cây sao già tại khu rừng ấy. Trải qua hơn 180 năm thăng trầm của lịch sử, đền vẫn còn đó dáng uy nghiêm và trầm mặc. Hằng năm vào ngày rằm tháng Mười Một âm lịch là ngày giỗ của ông.

V. Ngày giỗ

Vào ngày mười lăm tháng mười một âm lịch năm Bính Tuất, tức là vào thứ tư, ngày mùng ba tháng giêng dương lịch năm 2007 đã diễn ra buổi lễ cúng đình thần, Đức Tiền Quân Nguyễn Văn Thành, tại xã Tân An. Từ tờ mờ sớm đã diễn ra lễ rước sắc phong thần từ ngôi nhà cổ vào đền Tân An. Trong bầu không khí trang nghiêm và long trọng của buổi lễ cúng thần, các đội tế lễ trong trang phục truyền thống, áo dài khăn đóng, đã ra làm lễ tế. Các khách thập phương từ các nơi gần xa cũng đã có mặt đông đủ tại đình cổ Tân An để thấp hương và cầu an.

VI. Nguồn gốc Khuê Văn Các

Năm 1805, ông cho xây dựng Khuê Văn Các tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám Hà Nội. Đây là một vài hình ảnh của Khuê Văn Các tại Văn Miếu - Hà Nội. Về nguồn gốc Khuê Văn Các trong bức ảnh thứ nhất đã ghi rõ như sau:

"Tháng 6, năm Ất Mùi niên hiệu Gia Long thứ 4 (1805) Quận công Nguyễn Văn Thành dựng Khuê Văn Các bên cạnh giếng vuông, trước sân Văn Miếu. 

Trần Bá Lãm có thơ ca ngợi:

Mấy lớp cung tường sừng sững cổ kim 

Bốn mùa hoa cỏ sum xuê tươi tốt 

Thánh triều gây dựng qui mô lớn

Lâu dài mãi với núi Nùng cao, sông Nhị sâu

Trích: Quốc sử di biên 

VII. Văn tế tướng sĩ trận vong

Văn tế tướng sĩ trận vong là một bài văn tế được Tiền Quân Nguyễn Văn Thành là đại thần có công lớn trong công cuộc thiết lập và xây dựng triều Nguyễn soạn và đứng chủ tế lễ truy điệu các tướng sĩ bỏ mình trong cuộc chiến giữa Nguyễn Phúc Ánh với nghĩa quân Tây Sơn vào tháng chạp năm 1802, tại Thuận Hóa. Đây được coi là một áng văn chương tuyệt bút mà Nguyễn Văn Thành đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam.

Nguyên văn

Than ôi! Trời Đông Phố vận ra Sóc Cảnh, trải bao phen gian hiểm mới có ngày nay;

Nước Lô hà chảy xuống Lương giang, nghĩ mấy kẻ điêu linh những từ thuở nọ, cho hay sinh là ký mà tử là quy; mới biết mệnh ấy yểu mà danh ấy thọ.

 Xót thay! Tình dưới viên mao, phận trong giới trụ. Ba nghìn họp con em đất Bái, cung tên ngang dọc chí nam nhi; hai trăm vây cờ cõi non Kỳ, cơm áo nặng dầy ơn cựu chủ. 

Dấn thân cho nước, son sắt một lòng; nối nghĩa cùng thầy, tuyết sơn mấy độ. 
Kẻ thời theo cơ đích chạy sang miền khách địa, hăm hở mài nanh giũa vuốt, chỉ non Tây thề chẳng đội trời chung; kẻ thời đón việt mao trở lại chốn sa cơ, dập dìu vén cánh nương vây, trông cõi Bắc quyết thu về đất cũ.

 Nằm gai nếm mật, chung nỗi ân ưu; mở suối bắc cầu, riêng phần lao khổ.

 Trước từng trải Xiêm La, Cao Miên về Gia Định mới dần ra Khánh, Thuận, đã mấy buổi sơn phong hải lễ, trời Cao, Quang soi tỏ tấm kiên trinh, rồi lai từ Đồn Bàn, Nam, Ngãi lấy Phú Xuân mà thẳng tới Thăng Long, biết bao phen vũ pháo vân thê, đất Lũng, Thục lăn vào nơi hiểm cố.

 Phận truy tùy, ngẫm lại cũng cơ duyên; trường tranh đấu biết đâu là mệnh số.

 Kẻ thời chen chân ngựa quyết giật cờ trong trận, xót lẽ gan vàng mà mệnh bạc, nắm lông hồng theo đạn lạc tên bay; kẻ thời bắt mũi thuyền toan cướp giáo giữa dòng, thương thay phép trọng để thân khinh, phong da ngựa mặc bèo trôi sóng vỗ.

 Hồn tráng sĩ biết đâu miền minh mạc, mịt mù gió lốc, thổi dấu tha hương; mặt chinh phụ khôn vẽ nét gian nan, lập lòe lửa trời, soi chừng cổ độ.

 Ôi! Cùng lòng trung nghĩa, khác số đoản tu, nửa cuộc công danh, chia phần kim cổ.

 Đoái là tiếc xương đồng da sắt, thanh bảo kiếm đã trăm rèn mới có, nợ áo cơm phải trả đến hình hài; những là khen dạ đá gan vàng, bóng bạch câu xem nửa phút như không, ơn dầy đội cũng cam trong phế phủ.

 Phận dù không gác khói đài mây; danh đã dậy ngàn cây nội cỏ. 
Thiết vì thuở theo cờ trước gió, thân chả quản ngàn sương đệm giá, những chờ xem cao thấp bức cân thường; tiếc cho khi lỡ bước giữa dòng, kiếp đã về cõi suối làng mây, nào kịp thấy ít nhiều ơn Vũ lộ.

 Vâng thượng đức hồi loan tháng trước, đoàn ứng nghĩa dẫn Quảng, Thuận, Nghệ, Thanh cũng vậy, giội ân quang gieo khắp xuống đèo Ngang; mà những người từng thượng trận ngày xưa, dắp tấu công tự ngọ, vị, thân, dậu đến giờ, treo tính tự để nằm trong lá số.

 Ngọn còi rúc nguyệt, nơi tẻ nơi vui; dịp trống dồn hoa; chốn tươi chốn ủ. Đã biết rằng anh hùng thì chẳng quản, trăm trận một trường oanh liệt, cái sinh không, cái tử cũng là không; nhưng tiếc cho tạo hóa khéo vô tình, ngàn năm một hội tao phùng, phân thủy có phận chung sao không có. 

Bản chức nay, vâng việc biên phòng, chạnh lòng niềm viễn thú. Dưới trướng nức mùi chung đỉnh, sực nhớ khi chén rượu rót đầu ghềnh; trong nhà rõ vẻ áo xiêm, chạnh nghĩ buổi tấm cừu vung trước gió. Bâng khuâng kẻ khuất với người còn; tưởng tượng thầy đâu thì tớ đó.

Nền phủ định tới đây còn xốc nỗi, vu lòng một lễ, chén rượu thoi vàng; chữ tương đồng ngẫm lại vốn đinh ninh, khắp mặt ba quân, cờ đào nón đỏ, có cảm thông thì tới đó khuyên mời; dù linh thinh hãy nghe lời dặn dỗ.

 Buổi chinh chiến hoặc oan hay chẳng, cũng chớ nề kẻ trước người sau, hàng trên lớp dưới, khao thưởng rồi sẽ tấu biểu dương cho; hội thăng bình đừng có nghĩ rằng không, dù ai còn cha già, mẹ yếu, vợ góa, con côi, an tập hết, cũng ban tồn tuất đủ.

 Hồn phách đâu đều ngày tháng Thuấn, Nghiêu; hài cốt đó cũng nước non Thang, Vũ.

 Cơ huyền diệu hoặc thâm trầm chưa rõ, thiêng thời về cố quận, để hương thơm lửa sáng, kiếp tái sinh lại nhận cửa tiền quân; niềm tôn thân dù sinh tử chớ nề, linh thời hộ Hoàng triều cho bể lặng sóng trong, duy vạn kỷ chửa dời ngôi bảo tộ.

VIII. Nhận định

Nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh cho rằng: "lời đáng ghi vào vàng đá truyền đến muôn đời, khi giống giã như nhịp trống trong quân, khi tơi bời như ngọn cờ dưới nguyệt, khi mịt mù như cơn gió lốc thổi dấu kẻ tha hương, khi lập lòe như đám lửa trời soi chừng chốn cổ độ, khi hùng tráng như tiếng gươm tuốt giữa trận, khi lâm li như vượn khóc trên ngàn".

 (Nguyên văn từ Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)

IX. Quan trường như chiến trường

Thời đại nào cũng có những hiềm khích, tị hiềm, tranh giành ảnh hưởng, thế lực, nhất là trong thời kỳ vừa thống nhất giang sơn, những ngày đầu mà Gia Long còn chưa củng cố, chưa ổn định được triều chính, mọi việc đàng ngoài phải giao cho Nguyễn Văn Thành, một vị trí quá quan trọng và gây quá nhiều ganh tị trong triều đình. Thật ra, Gia Long không muốn trực tiếp đương đầu với những vấn đề Bắc Thành, trong thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh ông chỉ xưng Chúa và lấy đàng trong làm cứ địa, việc xưng Vương làm vua đã là sự bất phục với dân Bắc Thành, nơi được xem là kinh đô Thăng Long với quá nhiều nhân tài kẻ sĩ, và nhất là dân chúng vẫn còn hoài tưởng nhà Lê. 

Nguyễn Phúc Ánh là người có hoài bảo lớn, thống nhất Việt Nam sau gần 300 năm chia cắt và chiến tranh kể từ thời Nam Bắc triều tới hết thời Tây Sơn (1533-1802). Tuy nhiên ông đã mắc phải một số sai lầm, ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc đời sự nghiệp của ông và cho cả hậu vận nhà Nguyễn, đó là:

- Nuôi lòng thù hận quá lớn đối với Tây Sơn để trong các trận chiến, ông thường trả thù một cách tàn độc với tướng sĩ, tù binh thua trận và đặc biệt là việc quật mồ anh em nhà Tây Sơn bao nhiên năm sau đó để trả thù, dù chỉ trên những đống xương tàn.

- Thường xuyên cầu cạnh ngoại bang mà điển hình là việc “rước voi dày mả tổ”, cùng Xiêm La đưa quân vào đánh Tây Sơn năm 1784. Sau đó là "đưa hổ vào nhà", ký hoà ước nhượng bộ cho Pháp nhiều điều kiện, bất chấp hậu quả để đổi lấy mục đích của mình, tạo vô số những bất lợi cho nước nhà trong việc ổn định một nền độc lập sau này. 

- Đối ngoại thì hoà hoãn thân cận Pháp, đối nội thì đàn áp chí sĩ yêu nước, những người đã bỏ bao xương máu trong công cuộc đấu tranh giành độc lập cho đất nước, bắt đầu một nền Pháp thuộc qua bao nhiêu triều đại nhà Nguyễn sau đó.

Cho nên trong thời kỳ trị quốc, mọi người vẫn còn nhạy cảm một hình tượng Nguyễn Phúc Ánh cho dù ông đã xưng vua và đổi tên Gia Long với bao cố gắng, nổ lực. Cái chết oan uổng của một Quận Công, đại công thần Nguyễn Văn Thành cùng gia quyến, mà hầu như có sự sắp xếp của Gia Long cùng bao nhiêu cận thần khác, những người đã nuôi lòng thù hận từ những tị hiềm, ganh ghét Nguyễn Văn Thành, đã gây một dư luận xôn xao trong cả nước, khiến Gia Long không hoàn toàn thu phục được nhân tâm của dân chúng thời bấy giờ. “Chim không còn thì cung tên bị xếp xó”, đó là qui luật mà Gia Long luôn áp dụng trong việc dùng tài. Nguyễn Văn Thành là người vào sanh ra tử cứu ông bao lần và cùng ông gầy dựng giang sơn, tạo một nền chính trị ổn định cho Bắc Thành. Để sau đó ông nuôi lòng nghi kị và sinh lòng huỹ diệt. Lê Văn Duyệt cũng không là một ngoại lệ, Gia Long đã dùng Lê Văn Duyệt để tiêu diệt dòng họ Nguyễn Văn Thành, và sau đó Lê Văn Duyệt cũng chịu chung một số phận, đến chết mà vẫn không được mồ yên mả đẹp.

Phủ thờ họ “Trần” cây số 2 Long Sơn mà dân Tân Châu chúng ta ai cũng biết. Nhưng có lẽ trong chúng ta ít ai biết nó đã có ở đó từ bao giờ, chỉ biết sau sự kiện Nguyễn Văn Thành, một người miền ngoài cùng gia đình và một số gia nhân, người hầu thân cận đến lập nghiệp tại thôn Long Sơn, thuộc Tân Châu Đạo. Nhóm người này cùng sinh sống trong cộng đồng người Hoa họ Trần, và sau đó người ta gọi ông là “Trần Văn Kiển”. Dân địa phương có ít nhiều thiện cảm với dòng họ “Trần” Long Sơn qua cách sống mực thước, mang nhiều ảnh hưởng “nhà quan” nhưng giản dị, gần gủi, nhất là truyền thống chuộng đạo Phật cùng những đóng góp to lớn cho chùa chiền Phật Giáo địa phương. Tìm hiểu họ “Trần” Long Sơn qua gia phả và lời kể của cụ Trần Công Tường, đã 99 tuổi, người cao niên nhất trong dòng tộc hiện nay, chúng ta không khỏi ngạc nhiên biết rằng “Trần Văn Kiển” là một trong những người con của Nguyễn Văn Thành, chạy vào mãi mảnh đất tận cùng sát biên giới Chân Lạp này, thay tên, đổi họ để tìm con đường sống.

 Là một đại thần trung kiên nghĩa đảm, Nguyễn Văn Thành đã dũng cảm chọn cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Là một trượng phu, với tấm lòng cao cả của một người cha, ông đã mạnh dạn bưng chén độc dược uống cạn để mưu cầu sự bình yên cho con cháu. Nhưng ông có biết đâu rằng Nguyễn Phúc Ánh lúc nào cũng hiện diện bên trong con người Gia Long, với chính sách “diệt cỏ tận gốc”, sau khi Nguyễn Văn Thành uống thuốc độc tự tử và Nguyễn Văn Thuyên bị xử chết, cho đến nhiều năm sau đó Gia Long còn truy giết gia tộc Nguyễn Văn Thành gồm những con, cháu như Nguyễn Văn Thần, Nguyễn Văn Nhâm, Nguyễn Văn Chuân, Nguyễn Văn Huyền, Nguyễn Văn Hân cùng gia thuộc của họ cho đến thời Minh Mạng, chỉ sống xót “Trần Văn Kiển” chạy vào tận thôn Long Sơn, Tân Châu Đạo, Nguyễn Văn Hiển (cháu nội Nguyễn Văn Thành) nguyên tổng trấn Quảng Nam, sau vào tu tại chùa Phi Lai ngày nay, một người con trai, một con gái chạy vào đất Gò Công mà trong những năm đầu thế kỷ 20, con cháu họ vẫn còn liên lạc với dòng họ “Trần” Long Sơn, nay đã bặt tin. Ý định của “Trần Văn Kiển” khi chọn mảnh đất Long Sơn này có lẽ còn một lý do khác, đó là trong trường hợp tiếp tục bị truy đuổi, ông lại sẽ vượt biên giới sang Chân Lạp.

Sử sách các triều đại nhà Nguyễn hầu như đã cố tình tránh né nên không viết nhiều về uẩn khúc Nguyễn Văn Thành. Hiện nay, với sự thông thoáng của hệ thống mạng, lịch sử mỗi ngày một phong phú và đang dần sáng tỏ những sự kiện trong các triều Nguyễn, công hay tội của Nguyễn Văn Thành chúng ta hãy để lịch sữ phán quyết. Chắc hẳn dòng họ “Trần” Long Sơn cũng không thiết tha trong việc sáng tỏ sự kiện Nguyễn Văn Thành, càng không muốn công khai lai lịch đã được giữ kín bấy lâu, bởi nó không thay đổi được gì trong cuộc sống an bình của họ. Không phải là nhà viết sử, tôi xác định bài viết này hoàn toàn không mang tính lịch sử, là một thành viên trong cộng đồng nho nhỏ của trang web trường, và chỉ trong phạm vi trang web này, qua sưu tầm, tôi chỉ mong mang đến các bạn những thông tin liên quan trực tiếp đến quê nhà chúng ta. Bài viết này được trích dẫn nguyên văn cùng những suy luận dựa vào tham khảo từ tài liệu lịch sử hiếm hoi nên có thể vẫn còn nhiều thiếu xót, hy vọng nhận được sự bổ sung của các bạn.

Tháng 5, 2008

“tanchau”