LỜI GIỚI THIỆU

Website  honguyenquancong.com là kênh thông tin chính thức của dòng họ

Nguyễn Huế - Gia Định, là diễn đàn trao đổi giữa các chi họ Nguyễn trong

và ngoài nước. Ban quản trị Website mong muốn nhận được bài viết, hình

ảnh về các hoạt động của các chi họ để trang Web thêm phong phú, đa dạng.

Mọi thông tin xin gửi về địa chỉ Email: honguyenquancong@gmail.com hoặc

duyhung12258@gmail.com. 

NGUỒN TƯ LIỆU HÁN NÔM VỀ TỔNG TRẤN NGUYỄN VĂN THÀNH

Tham luận Hội thảo của Thạc sĩ - NCS Dương Văn Hoàn

Tổng trấn Nguyễn Văn Thành là một danh nhân lịch sử, vị khai quốc công thần, có nhiều công lao đóng góp cho triều Nguyễn. Nhưng số phận trớ trêu, cuối đời ông phải chịu hàm oan trong một vụ án văn chương thời vua Gia Long. 

Sinh thời Nguyễn Văn Thành là người có học thức, yêu văn chương, từng được sung giữ chức Tổng tài đầu tiên của triều Nguyễn, tham gia vào việc soạn thảo nhiều bộ sách quan trọng của nhà nước như Hoàng Việt luật lệ (luật Gia Long), Quốc triều thực lục (Đại Nam thực lục), Vũ bị chí, Tứ di loại chí, Văn tế tướng sĩ trận vong,… Do đó, nguồn tư liệu Hán Nôm về Tổng trấn Nguyễn Văn Thành, ngoài các tác phẩm có sự tham gia của ông nói trên và các bộ sử sách quan trọng của triều Nguyễn như Đại Nam thực lục, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam chính biên liệt truyện, Quốc triều chính biên toát yếu, Quốc sử di biên, Đại Nam nhất thống chí…, còn có nguồn tư liệu Hán Nôm hiện lưu trữ tại các di tích địa phương liên quan trực tiếp đến ông như từ đường, lăng mộ, bao gồm: chế, chiếu, biểu, bằng, sắc, hoành phi, câu đối, gia phả, văn bia[1]

Trong bài viết này, chúng tôi sẽ điểm qua lại một số tư liệu Hán Nôm hiện tồn tại các di tích liên quan đến Tổng trấn Nguyễn Văn Thành. Song cũng cần phải nói thêm rằng, mặc dù hiện nay đã có một số bản dịch chú nhóm tư liệu Hán Nôm nói trên, tuy nhiên do bản thân văn bản (đặc biệt là chế sắc) có độ khó nhất định (ngôn từ cổ kính, nhiều điển tích điển cố), nên các bản dịch công bố trước đây khó tránh khỏi có những nhầm lẫn, sai sót nhất định. Ở lần công bố này, chúng tôi cố gắng cung cấp bản dịch tốt hơn của một số di văn Hán Nôm quan trọng, liên quan trực tiếp đến Nguyễn Văn Thành, để người đọc rộng đường tham khảo. 

1. Văn bia mộ:

 Trước tiên, tại lăng mộ Nguyễn Văn Thành ở làng Dã Lê Thượng có 2 tấm văn bia, dựng ngay sau khi ông qua đời năm 1817. Cụ thể như sau:

  • Bia trước Lăng mộ  

  • [1] Việt cố: theo các nhà nghiên cứu, ý nói người dưới mộ từng sinh sống vào thời các chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Xem thêm Võ Vinh Quang, Đỗ Minh Điền, “Về niên đại và cách dùng từ “Việt cố” trên bia mộ (Khảo sát, đối chiếu qua nguồn tư liệu thực tế hiện tồn)” 

    (https://vovinhquang.wordpress.com/2020/06/29/ve-nien-dai-va-cach-dung-tu-viet-co-tren-bia-mo/).

  • Nội dung bia trước đề: “Việt cố Khâm sai Chưởng Trung quân Bình Tây Đại tướng quân Thành quận công chi mộ "

    越故欽差掌中軍平西大將軍誠郡公之墓” (Phần mộ Khâm sai Chưởng

    Trung quân Bình Tây Đại tướng quân, Thành quận công, nước Việt cố[1]).

  • Bia phía sau lăng:

Nguyên văn:

越南故欽差掌中軍平西大將軍郡公,姓阮,諱榮,字誠。先考贈明義功臣,特進輔國上將軍錦衣衛掌衛事掌营,諱賢,謚忠勇阮公。先妣依夫正室陳氏,諱檀,謚莊懿夫人。

公先世原居順化處肇豊府廣田縣富屋總博望社西甲,後徙居嘉定城潘安鎮新平府新隆縣新豊總平隆村。以戊寅年十一月十三日生。仕本朝,扈從望閣,至復嘉定受步道先鋒,兼管烏艚唐兵。次陞掌前軍郡公,調撥諸道步兵。次受北城總鎮,後改遷是秩。于丁丑年仲夏月十一日申時卒,塟于富春京野梨上社山崗。公原配故鄭氏𦒹生女媛,繼室武氏和生男𧭓、女婧;側室武氏利生男諝、語;鄭氏月生女論;阮氏花生男謐、訓;故丁氏春生男諄;故武氏富生男謜、諴、女嬌;妾張氏清生男訢、 䚮;阮氏仁生男䛘;故鄭氏安生男𧫆;阮氏勤生男譓;阮氏從生女婉;阮氏遠生男詝。該男:諝、𧭓、謐、語、訓、謜、諄

、諴、訢、𧫆、譓、䛘、䚮、詝十四;女媛、論、婧、、嬌、婉五人。

歲在丁丑 年九月二十六日,嫡子𧭓謹誌。

Phiên âm: 

Việt Nam cố Khâm sai Chưởng Trung quân Bình Tây Đại tướng quân, quận công, tính Nguyễn, huý Vinh, tự Thành. Tiên khảo tặng Minh Nghĩa công thần, Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân, Cẩm y vệ Chưởng vệ sự Chưởng doanh, húy Hiền, thụy Trung Dũng Nguyễn công. Tiên tỷ y phu chánh thất Trần thị, húy Đàn, thụy Trang Ý phu nhân. 

Công tiên thế nguyên cư Thuận Hoá xứ, Triệu Phong phủ, Quảng Điền huyện, Phú Ốc tổng, Bác Vọng xã, Tây giáp. Hậu tỷ cư Gia Định thành, Phiên An trấn, Tân Bình phủ, Tân Long huyện, Tân Phong tổng, Bình Long thôn. Dĩ Mậu Dần niên, thập nhất nguyệt, thập tam nhật sinh. Sĩ bản triều hỗ tụng Vọng Các, chí phục Gia Định, thụ bộ đạo tiên phong, kiêm quản Ô Tào Đường binh.Thứ thăng Chưởng Tiền quân quận công, điều bát chư đạo bộ binh. Thứ thụ Bắc thành Tổng trấn, hậu cải thiên thị trật. Vu Đinh Sửu niên, trọng hạ nguyệt, thập nhất nhật, Thân thời tốt, táng vu Phú Xuân kinh, Dã Lê Thượng xã sơn cương.

Công nguyên phối cố Trịnh Thị Sáu, sinh nữ Viên; kế thất Võ Thị Hòa, sinh nam Huỳnh, nữ Thanh; trắc thất Võ Thị Lợi, sinh nam Tư, Ngữ; Trịnh Thị Nguyệt, sinh nữ Luận; Nguyễn Thị Hoa, sinh nam Mật, Huấn; cố Đinh Thị Xuân, sinh nam Truân; Cố Võ Thị Phú, sinh nam Nguyên, Hàm, nữ Kiều; Thiếp Trương Thị Thanh, sinh nam Hân, Nãi; Nguyễn Thị Nhơn sinh nam Nhậm; cố Trịnh Thị An sinh nam Đảng; Nguyễn Thị Cần, sinh nam Huệ; Nguyễn Thị Tòng, sinh nữ Uyển; Nguyễn Thị Viễn, sinh nam Trữ. 

Cai nam: Tư, Huỳnh, Mật, Ngữ, Huấn, Nguyên, Truân, Hàm, Hân, Đảng, Huệ, Nhậm, Nãi, Trữ thập tứ. Nữ Viên, Luận, Thanh, Kiều, Uyển ngũ nữ.

Tuế tại Đinh Sửu  niên, cửu nguyệt, nhị thập lục nhật, Đích tử Huỳnh cẩn chí.

Dịch nghĩa:

Việt Nam cố Khâm sai Chưởng Trung quân, Bình Tây Đại tướng quân, quận công, họ Nguyễn, tên húy Vinh, tên tự Thành. Thân phụ là Nguyễn công được tặng Minh Nghĩa công thần Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân, Cẩm y vệ Chưởng vệ sự Chưởng doanh, tên húy là Hiền, thụy là Trung Dũng. Thân mẫu là y phu chánh thất Trần thị, tên húy là Đàn, thụy là Trang Ý phu nhân. 

Đời trước ông vốn định cư ở giáp Tây, xã Bác Vọng, tổng Phú Ốc, huyện Quảng Điền, phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa. Về sau dời đến cư trú tại thôn Bình Long, tổng Tân Phong, huyện Tân Long, phủ Tân Bình, trấn Phiên An, thành Gia Định. Ông sinh ngày13 tháng 11 năm Mậu Dần [1758]. Làm quan bản triều, theo hầu vua đi Vọng Các[1], đến khi thu phục Gia Định, được giữ chức bộ đạo tiên phong, kiêm quản Ô Tào Đường binh, rồi thăng Chưởng Tiền quân, quận công, điều bát chư đạo bộ binh, sau giữ chức Tổng trấn Bắc thành, rồi đổi sang trật này. Ông mất vào giờ Thân ngày 11 tháng 5năm Đinh Sửu [1817], táng tại gò đồi xã Dã Lê Thượng ở kinh đô Phú Xuân.

Bà chánh thất của ông là cố Trịnh Thị Sáu, sinh nữ là Viên;

Bà kế thất là Võ Thị Hòa, sinh nam là Huỳnh, sinh nữ là Thanh; 

Bà trắc thất Võ Thị Lợi sinh nam là Tư, Ngữ; 

Bà (trắc thất) Trịnh Thị Nguyệt sinh nữ là Luận; 

Bà (trắc thất) Nguyễn Thị Hoa sinh nam là Mật, Huấn; 

Bà (trắc thất) cố Đinh Thị Xuân sinh nam là Truân; 

Bà (trắc thất) cố Võ Thị Phú sinh nam Nguyên, Hàm, nữ Kiều. 

Thiếp: Trương Thị Thanh, sinh nam Hân, Nãi; 

Bà (thiếp) Nguyễn Thị Nhơn sinh nam Nhậm; 

Bà (thiếp) cố Trịnh Thị An sinh nam Đảng; 

Bà (thiếp) Nguyễn Thị Cần sinh nam Huệ;  Bà (thiếp) Nguyễn Thị Tòng sinh nữ Uyển; 

Bà (thiếp) Nguyễn Thị Viễn, sinh nam Trữ. 

Tổng cộng trai gồm 14 người: Tư, Huỳnh, Mật, Ngữ, Huấn, Nguyên, Truân, Hàm, Hân, Đảng, Huệ, Nhậm, Nãi, Trữ. 

Gái 5 người: Viên, Luận, Thanh, Kiều, Uyển. Ngày 26 tháng 9 năm Đinh Sửu (1817).

Con đích là Huỳnh kính ghi[2].

2. Bằng sắc

Tại từ đường Nguyễn Quận công từ thờ Nguyễn Văn Thành ở Huế còn lưu giữ được nhiều bằng sắc cho ông và các thân nhân. Chúng tôi thống kê bước đầu có 22 văn bản, bao gồm chế, chiếu, sắc, bằng cấp, giấy chứng nhận… cho Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Huỳnh, Trần Thị Huệ, Nguyễn Văn Chân, Nguyễn Văn Uyên, Nguyễn Văn Lưu, Nguyễn Văn Phú… Cụ thể xin xem danh sách sau đây:

STT

Niên đại

Người được phong

Quan hệ với Nguyễn Văn Thành

Cấp phong tặng, giữ chức

Ghi chú

1.

Minh

Mệnh 3

(1822)

Nguyễn

Văn Lộc

Chưa rõ

Trực hậu vệ Phó vệ úy Lộc Tài hầu

Chiếu

2.

Minh

Mệnh 5

(1824)

Nguyễn

Văn Lộc

Chưa rõ

Tiền doanh Tuyển phong Tiền vệ Vệ úy Lộc Tài hầu

Chiếu

3.

Minh

Mệnh 8

(1827)

Nguyễn

Văn Lộc

Chưa rõ

Gia hàm 1 bậc

Chiếu

4.

Tự Đức

19

(1866)

Nguyễn Văn

Chân

Thứ tôn

Tinh binh Chánh đội

trưởng

Sắc

5.

Tự Đức

19

(1866)

Nguyễn Văn

Chân

Cháu

Xin lĩnh bài về quân cấp

Đơn

 

 

 

6.

Tự Đức

21

(1868)

Nguyễn Văn

Thành

Bản thân

Truy phục Vọng Các công thần, Chưởng Trung quân, Bình Tây đại tướng quân Quận công nguyên hàm, liệt thờ vào miếu Trung hưng công thần

Chế

7.

Tự Đức

21

(1868)

Nguyễn Văn

Chân

Cháu

Lệ tùy tuyển phong Nhất vệ Chánh đội trưởng

Bằng cấp

8.

Tự Đức

24

(1871)

Nguyễn Văn

Chân

Tôn (cháu)

Chánh đội trưởng đợi bổ, xin thừa ấm, chuẩn Tập thụ Kỵ đô úy, và lưu ở nhà trông nom việc thờ cúng công thần

Sắc

9.

Tự Đức

26

(1873)

Nguyễn Văn

Chân

Cháu

Thủ ban Ấm thụ Kỵ đô

úy, nhận lĩnh nha bài

Giấy nhận lĩnh

10.

Tự Đức

27

(1874)

Nguyễn Văn

Chân

Cháu

Ấm thụ Kỵ đô úy sung Đốc binh quân thứ Bình

Tĩnh

Bằng cấp

11.

Tự Đức

27

(1874)

Nguyễn Văn

Chân

Cháu

Ấm thụ Kỵ đô úy trật Tòng tứ phẩm, bộ Hộ cấp lương bổng tiền gạo (6 quan tiền, 1 phương gạo)

Bằng cấp

12.

Tự Đức

29

(1876)

Nguyễn Văn

Chân

Cháu

Tả định cơ Phó quản cơ

Bằng cấp

13.

Tự Đức

31

(1878)

Nguyễn Văn

Chân

Cháu

Tả Định cơ Phó quản cơ

Khâm

cấp

14.

Tự Đức

33

(1880)

Nguyễn Văn

Chân

Cháu nội

Phấn dũng tướng quân Phó lãnh binh, lãnh Thái

Nguyên Lãnh binh

Khâm

cấp

15.

Tự Đức

33

(1880)

Nguyễn Văn

Chân

Cháu nội

Hà Nội Tả Định cơ Phó quản cơ Nguyễn Văn

Chân thăng thụ Phó Lãnh binh tỉnh Thái Nguyên

Cung

lục

16.

Tự Đức

35

(1882)

Nguyễn Văn

Huỳnh

Con       đích

(bố        Văn

Chân)

Võ công Đô úy Cấm binh

Cai đội

Chế

17.

Tự Đức

35

(1882)

Trần Thị Huệ

con dâu (vợ Văn Huỳnh, mẹ Văn

Chân)

Chánh ngũ phẩm nghi

nhân (đã mất)

Chế

18.

Thành

Thái     2

(1890)

Nguyễn Văn

Uyên

Tằng tôn

Tập thụ Phi kỵ úy Giám thủ (y cố viên tự sự)

Sắc 

19.

Thành

Thái     6

(1894)

Nguyễn Phả

 

khai phục Phò mã nguyên hàm

Sắc

20.

Thành

Thái     6

(1894)

Nguyễn

Văn Lưu

Thứ      tằng

tôn

Tập thụ ân Kỵ úy hàm

(lưu gia phụng tự)

Sắc 

21.

Duy

Tân      5

(1911)

Nguyễn

Văn Phú

Cháu huyền tôn

Tập thụ ân Kỵ úy hàm

Sắc

22.

Bảo Đại 6 (1931)

Nguyễn Phú

Cháu huyền tôn

Truy thụ Cấm binh Chánh đội, trật chánh ngũ phẩm (ốm chết)

Sắc

Trong đó, đặc biệt là bản chế phong minh oan, truy phục nguyên hàm chức cho Nguyễn Văn Thành, được ban vào năm Tự Đức thứ 21 (1868). Xin giới thiệu bản dịch toàn văn như sau:

 

Nguyên văn: 

承天興運,皇帝制曰:朕惟功臣國家之元氣,黜陟人主之大權,威威而祗祗,惡惡而善善,功過相衡,瑕瑜不相掩。周官八議,左傳十宥,皆爲有功設也。

前望閣功臣誠郡公阮文誠,故忠節功臣掌奇阮文賢之子也。一門忠義,奕世勳勞,羈靮多年,橐鞬百戰,身爲大將,爵至上公,功名上於景鐘,書券存乎盟府。嘉隆年間,因其子不肖,坐累而終,遺表一上,聖懷大慟。明命、紹治年間,恩施曠蕩,漸次從寬,深意蓋有在也。朕仰追先志,緬懷元勳,爰命廷臣,再三確究,議以追復爵銜,秩之元祀。僉言允協,禮則宜之。加恩阮文誠,著追復望閣功臣掌中軍平西大將軍,郡公原銜,又準于中興功臣廟列祀。錫之誥命,用妥幽潛。於戲!石碏純臣,不以子厚而沒於衞;英公偉烈,不以敬業而亡於唐。今之宥過錄功,廣聖恩也。成美意,昭厚道,蓄將才,爲國家將來之報也。隔世有辭,九原可作,雖往之日,如存之年。欽哉!

嗣德貳拾壹年肆月拾柒日。

(敕命之寶)

Phiên âm:

Thừa thiên hưng vận, Hoàng đế chế viết:

Trẫm duy, công thần quốc gia chi nguyên khí, truất trắc nhân chủ chi đại quyền, uy uy nhi chi chi, ố ác nhi thiện thiện, công quá tương hành, hà du bất tương yểm. Chu quan bát nghị, Tả truyện thập hựu, giai vị hữu công thiết dã.

Tiền Vọng Các công thần Thành quận công Nguyễn Văn Thành, cố Trung tiết công thần chưởng cơ Nguyễn Văn Hiền chi tử dã. Nhất môn trung nghĩa, dịch thế cần lao, ky đích đa niên, thác kiện bách chiến, thân vi đại tướng, tước chí thượng công. Công danh thượng ư cảnh chung, thư khoán tồn hồ minh phủ.

Gia Long niên gian, nhân kỳ tử bất tiếu, tọa lụy nhi chung, di biểu nhất thướng, Thánh hoài đại đỗng. Minh Mệnh, Thiệu Trị niên gian, ân thi khoáng đãng, tiệm thứ tòng khoan, thâm ý cái hữu tại dã. 

Trẫm ngưỡng truy tiên chí, miến hoài nguyên huân, viên mênhj đình thần, tái tam xác cứu, nghị dĩ truy phục tước hàm, trật chi nguyên tự. Thiểm ngôn doãn hiệp, lễ tắc nghi chi. Gia ân Nguyễn Văn Thành trước truy phục Vọng Các công thần Chưởng Trung quân Bình Tây Đại tướng quân, Quận công nguyên hàm, hựu chuẩn vu Trung Hưng công thần miếu liệt tự. Tích chi cáo mệnh, dụng thỏa u tiềm.

Ô hô! Thạch Thước thuần thần, bất dĩ tử Hậu nhi một ư Vệ; Anh Công vĩ liệt, bất dĩ Kính Nghiệp nhi vong ư Đường. Kim chi hựu quá lục công, quảng Thánh ân dã. Thành mỹ ý, chiêu hậu đạo, súc tướng tài, vị quốc gia tương lai chi báo dã. Cách thế hữu từ, cửu nguyên khả tác, tuy vãng chi nhật, như tồn chi niên. Khâm tai!

Tự Đức nhị thập nhất niên tứ nguyệt thập thất nhật.

(Sắc mệnh chi bảo).

Dịch nghĩa:

Vâng mệnh trời nổi vận, Hoàng đế xuống chế rằng:

Trẫm nghĩ, công thần là nguyên khí của quốc gia, thăng giáng [chức vụ] là quyền lớn của người làm chủ[1], ra uy phạt kẻ đáng phạt và cung kính người đáng kính[2], ghét người ác và yêu người thiện, công và tội bù trừ cho nhau, tỳ vết không che lấp đi vẻ đẹp của ngọc[3]. Lệ bát nghị[4]ở sách Chu quan5, câu “thập hựu”6 trong sách Tả truyện đều là vì người có công mà đặt ra vậy.

Vọng Các công thần, Thành quận công, Nguyễn Văn Thành trước đây, là con của ông Trung tiết công thần, Chưởng cơ Nguyễn Văn Hiền đã quá cố. Ông một nhà trung nghĩa, đời đời có công huân, yên cương rong ruổi bao năm, cung kiếm chiến chinh trăm trận, thân làm đại tướng, chức đến thượng công, công danh ghi trên chuông lớn, thư khoán1 còn trong minh phủ2.

Khoảng triều Gia Long, nhân vì con ông bất tiếu3 làm liên lụy mà chết, tờ di biểu vừa đưa lên, nhà vua buồn thương gào khóc4. Đến khoảng triều Minh Mệnh, Thiệu Trị, ra ơn rộng lượng, dần dần tha tội, cũng là có dụng ý sâu sắc vậy. 

Trẫm kính nối chí ông cha đời trước, tưởng nhớ đến các bậc nguyên huân, bèn sai đình thần nhiều lần cứu xét lại cho rõ ràng, bàn định cho truy phục lại tước hàm, thờ xếp vào hàng nguyên tự5. Lời bàn đã thích hợp, nghi lễ đáng nên làm. Vậy gia ân cho ông Nguyễn Văn Thành được truy phục nguyên hàm Vọng Các công thần, Chưởng Trung quân, Bình Tây đại tướng quân, tước Quận công, lại chuẩn cho được liệt thờ vào miếu Trung hưng công thần. Ban cho cáo mệnh, an ủi linh hồn.

Than ôi! Bề tôi thuần thành Thạch Thước không vì con là Thạch Hậu mà mai một ở nước Vệ6; công nghiệp vĩ đại của Anh Công không vì loạn Kính Nghiệp mà tiêu vong bởi nhà Đường7. Nay tha tội ghi công, là rộng ơn vua thánh vậy. Như thế là trọn vẹn tấm lòng tốt đẹp, tỏ rõ đạo nhân hậu, nuôi dưỡng tướng tài, để báo đáp đất nước ngày sau vậy. 

 

 

nghị cần (kẻ siêng năng), nghị tân (tân khách). Lệ này xuất hiện ở chương Thu quan sách Chu lễ, cốt để châm chước tình nghĩa, tài năng,… mà đưa vào diện chiếu cố khi xem xét lượng hình xử phạt cho thích đáng.

5 Chu quan: tức sách Chu lễ. 6 Thập hựu: khoan thứ, tha tội đến 10 đời, để đãi ngộ công thần có công lao lớn. (Xem Tương công năm thứ 21, sách Xuân thu Tả truyện).

  1. Thư khoán: tức thư son khoán sắt, là vật làm bằng của đế vương đời xưa ban cho công thần được đời đời tập ấm và hưởng đặc quyền miễn tội.
  2. Minh phủ: phủ quan nắm việc quản lý tàng trữ văn thư minh ước thời cổ.
  3. Bất tiếu: người con hư hỏng, không được như cha.
  4. Sử chép: sau khi Nguyễn Văn Thành uống thuốc độc chết, “bỗng có quân lại nhặt được tờ di chiếu trần tình của Văn Thành ở nhà quân đem dâng. Vua cầm tờ biểu khóc to lên đưa cho bầy tôi xem mà dụ rằng: “Văn Thành từ lúc trẻ theo trẫm có công lao to. Nay nhất đán đến nỗi chết, trẫm không bảo hộ được ấy là trẫm kém đức”.” (Đại Nam thực lục, tập Một, bản dịch, Nxb Giáo dục, 2002, tr.949).
  5. Nguyên tự: tức tế đại tự. Thời Gia Long phân chia hệ thống tế tự thành ba bậc là: đại tự (thờ lớn), trung tự (thờ vừa) và quần tự (thờ thường). Tuy nhiên, Nguyễn Văn Thành được xếp vào thờ ở miếu Trung hưng công thần, tức thuộc hàng “quần tự”, do đó “nguyên tự” ở đây chỉ dùng với ý phiếm chỉ tế lớn, hay quốc tế mà thôi.
  6. Thạch Thước (cũng đọc Thạch Thác): quan Đại phu nước Vệ thời Xuân Thu, ông nổi tiếng vì nghĩa diệt thân, không vì tình riêng mà tha chết cho con mình là Thạch Hậu hùa theo Chu Hu giết vua nước Vệ.  7 Anh quốc công Từ Kính Nghiệp là dòng dõi đại tướng nhà Đường, lấy danh nghĩa khôi phục Đường Trung Tông mà khởi nghĩa chống lại Võ Tắc Thiên. Dù sau bị đàn áp, nhưng tên tuổi của ông chói lòa trong sử sách.

Thời đã khác xa mấy lời an ủi, khách cửu nguyên có thể hồi sinh[5], ngày dẫu đã mất, nhưng năm còn đây2.

Hãy kính tuân đấy!

Ngày 17 tháng 4 năm Tự Đức thứ 21 (1868).

[đóng ấn “Sắc mệnh chi bảo”]

3. Đại tự câu đối

Tại từ đường Nguyễn Quận công và lăng mộ Nguyễn Văn Thành đều có nhiều bức đại tự, câu đối ca ngợi gia thế, dòng dõi, tài năng, đức độ, công lao, sự nghiệp, lòng trung quân ái quốc của vị Tổng trấn Nguyễn Văn Thành, cũng như đề cập đến việc thờ tự, hương khói và ca ngợi địa thế, cảnh đẹp núi sông của từng di tích. Nhưng theo quan sát bước đầu của chúng tôi, đa số đại tự câu đối ở đây được làm mới, bức cổ không còn nhiều. Trong số các bức hoành phi, câu đối cổ, đáng chú ý có bức đại tự: 略韜世劵

Lược thao thế khoán

(Tài thao lược thư khoán đời đời) Và đôi câu đối thể chữ Hành:

長空一點精忠水色山聲同浩蕩崇祀千秋正氣香煙燈影共焜煌

Trường không nhất điểm tinh trung, thủy sắc sơn thanh đồng hạo đãng; Sùng tự thiên thu chính khí, hương yên đăng ảnh cộng côn hoàng.

(Tinh trung một điểm rộng bao la, mênh mông cùng vẻ non sắc sắc nước; Chính khí nghìn thu luôn sùng phụng, rực rỡ với nhang khói ánh đèn). 

Tạm kết:

Tóm lại, qua nguồn tư liệu Hán Nôm hiện còn tại di tích, kết hợp với khai thác chính sử, chúng ta biết được Nguyễn Văn Thành sinh ngày 13 tháng 11 năm Mậu Dần (1758). Ông xuất thân dòng dõi võ quan, là con của Minh nghĩa công thần, Chưởng doanh Nguyễn Văn Hiền. Đời trước định cư ở Giáp

Tây xã Bác Vọng tổng Phú Ốc huyện Quảng Điền phủ Triệu Phong xứ Thuận Hóa (nay là làng Bác Vọng xã Quảng Phú huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên Huế), về sau dới đến cư trú tại thôn Bình Long tổng Tân Phong huyện Tân Long phủ Tân Bình trấn Phiên An thành Gia Định (nay thuộc quận Tân Phú thành phố Hồ Chí Minh). Ông làm quan trải qua nhiều chức võ quan, sau thăng đến Tống trấn Bắc Thành, rồi đổi sang làm Khâm sai Chưởng Trung quân, Bình Tây Đại tướng quân, tước Thành Quận công, sung Tổng tài. Sau vì liên quan đến vụ án thơ văn âm mưu tạo phản của người con là Phò mã Nguyễn Văn Thuyên nên ông bị mất chức, thu ấn, đuổi về ở nhà riêng. Để chứng tỏ lòng trung, Nguyễn Văn Thành đã uống thuốc độc tự vẫn. Ông mất vào giờ Thân ngày 11 tháng 5 năm Đinh Sửu (1817), hưởng thọ 60 tuổi, và an táng ở gò đồi xã Dã Lê Thượng kinh đô Phú Xuân (nay là làng Dã Lê Thượng phường Thủy Phương thị xã Hương Thủy tỉnh Thừa Thiên Huế). Theo văn bia mộ dựng năm 1817, thê thiếp của ông có 13 bà, sinh được tổng cộng 19 người con (14 trai, 5 gái)[6]. Sau ông được vua Tự Đức minh oan, truy phục nguyên chức hàm và cho liệt thờ vào miếu Trung hưng công thần.

Có thể nói nguồn tư liệu Hán Nôm về Tổng trấn Nguyễn Văn Thành dẫu không còn đầy đủ nhưng cũng tương đối phong phú. Đây là nguồn tư liệu nguyên cấp, chứa đựng những thông tin quan trọng, quý báu, góp phần làm sáng tỏ hơn hành trạng, thân thế, cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Văn Thành nói riêng cũng như dòng họ Nguyễn Quận công của ông nói chung.

D.V.H

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Ảnh các tài liệu Hán Nôm liên quan đến Nguyễn Văn Thành do Trung tâm hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám cung cấp.
  2. Nguyễn tộc Quận công bổn tôn thế phả, Huyền tôn Nguyễn Văn Phú phụng tu, năm Khải Định thứ 5 (1920).
  3. Ban biên tập họ Nguyễn Quận công (2017), Cuộc đời và sự nghiệp danh nhân Nguyễn Văn Thành (1758-1817), (tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội.
  4. Nguyễn Văn Đăng, Mai Văn Được (2016), “Dấu tích danh nhân

Nguyễn Văn Thành trên đất Thừa Thiên Huế”, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển (số 2/128), tr.95-106.

  1. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam - Viện sử học (2013), Kỷ yếu Hội thảo khoa học Sự nghiệp của danh nhân Nguyễn Văn Thành với lịch sử dân tộc Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX, Hà Nội.

 

 

  1. Quốc sử quán triều Nguyễn (1997), Đại Nam chính biên liệt truyện, Tập 2, bản dịch, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
  2. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002),  Đại Nam thực lục, tập Một, bản dịch của Viện sử học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
  3. Phan Thúc Trực (2010), Quốc sử di biên (Thượng - Trung - Hạ), (bản dịch, của Nguyễn Thị Oanh, Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Tô Lan), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
 

[1] Người làm chủ: nguyên văn “chủ nhân”, ý nói nhà vua.

[2] Nguyên văn “uy uy”, “chi chi”, chữ dùng trong thiên Khang cáo, Chu thư, sách Thượng thư.

[3] Ý nói sự vật tuy có khuyết điểm nhưng không làm suy tổn giá trị của toàn thể.

[4] Lệ bát nghị: 8 bậc được nghị giảm tội gồm: nghị thân (thân thích), nghị cố (cố cựu), nghị công (người có công), nghị hiền (hiền thần có đức hạnh), nghị năng (tài năng, sự nghiệp), nghị quý (bậc sang trọng, quan to),

[5] Nguyên văn “Cửu nguyên khả tác”: Cửu nguyên, vốn là địa danh thời Xuân Thu, nơi chôn cất các quan khanh và đại phu nước Tấn, sau dùng để chỉ địa ngục, âm phủ, cũng như từ “cửu tuyền” (chín suối). Trong Đàn cung hạ, sách Lễ ký chép, Triệu Văn Tử cùng Thúc Dự đi xem đất Cửu nguyên, Văn Tử hỏi: “Người mất nếu như sống lại, thì ta sẽ làm việc với ai đây?”. Điển này ý nói người chết sẽ sống lại. 2 Ý nói người thì đã mất, nhưng tinh thần vẫn còn đương sống.

[6] Theo gia phả của họ Nguyễn Quận công, thì Nguyễn Văn Thành có tới 17 người vợ và 27 người con, gồm 20 nam và 07 nữ. Ngoài ra, có tài liệu nói Nguyễn Văn Thành có 18 người vợ và 28 người con, gồm 20 nam và 08 nữ.

 


[1] Vọng Các: tức Băng Cốc, thủ đô Thái Lan ngày nay.

[2] Tham khảo bản dịch của Nguyễn Văn Đăng, Mai Văn Được, công bố trong bài viết “Dấu tích danh nhân Nguyễn Văn Thành trên đất Thừa Thiên Huế”, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128), 2016, tr.95-106.


[1] Ngoài ra, do Nguyễn Văn Thành từng nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng, có giao du rộng rãi với các văn nhân, trí thức, quan lại lúc bấy giờ nên trong các bộ sưu tập công văn hành chính các cấp của nhà nước (châu bản, …), cũng như trong các tuyển tập thơ văn của các văn nhân, danh sĩ đương thời (Vũ Trinh, Phạm Quý Thích, Trần Hựu, Phạm Đình Hổ, Cao Huy Diệu …), chắc hẳn ít nhiều chứa đựng các thông tin liên quan đến ông. Song hiện nay chúng tôi chưa có điều kiện tìm hiểu, thống kê.