LỜI GIỚI THIỆU

Website  honguyenquancong.com là kênh thông tin chính thức của dòng họ

Nguyễn Huế - Gia Định, là diễn đàn trao đổi giữa các chi họ Nguyễn trong

và ngoài nước. Ban quản trị Website mong muốn nhận được bài viết, hình

ảnh về các hoạt động của các chi họ để trang Web thêm phong phú, đa dạng.

Mọi thông tin xin gửi về địa chỉ Email: honguyenquancong@gmail.com hoặc

duyhung12258@gmail.com. 

Suy nghĩ về tấm lòng nhân ái và công bằng của Nguyễn Văn Thành qua vụ án làm giả sắc phong thần của Đặng Trần Thường và Nguyễn Gia Cát vào năm 1811

NCV. Lê Quang Chắn - Viện Sử học

1. Tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802), sau khi thống nhất đất nước, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Gia Long. Dù còn bộn bề với nhiều công việc trọng đại cần phải giải quyết nhưng vị vua sáng nghiệp của Vương triều Nguyễn đã có sự quan tâm sát sao đến tín ngưỡng, tôn giáo nói chung, đến việc thờ cúng và phong tặng phẩm trật cho bách thần nói riêng, bởi ông luôn ý thức rằng, “đăng trật cho bách thần là điển lễ lớn ở buổi đầu của Nhà nước”.

            Việc quản lý bách thần là công việc trọng đại của mỗi triều đại. Thuyết Thiên mệnh của Nho gia cho rằng: Vua là Thiên tử (con Trời), nhận mệnh Trời cai trị nhân dân nên vua có quyền chủ tế bách thần trong toàn cõi. Vì lẽ đó, vua Gia Long (và sau này là các vị vua kế nghiệp của Vương triều Nguyễn) đã phân chia hệ thống tế tự (ở cấp Trung ương) thành ba bậc là Đại tự (gồm có tế đàn Nam giao, tế các tôn miếu, tế đàn Xã tắc), Trung tự (có tế Đế vương các đời, tế Tiên sư Khổng Tử, tế Tiên Nông) và quần tự (tế thần gió, Khải thánh, thần mưa, Tổ sư nghề thuốc, Thượng phụ Khương Thái công đời nhà Chu, Quan Công, Thiên phi; vị thành hoàng ở Kinh đô, miếu Hội đồng; Nam Hải long vương, vua nước Chiêm Thành, vua nước Chân Lạp, thần lửa, thần súng uống, Thai Dương phu nhân; thần sông, thần Hậu thổ, thần coi việc thợ thuyền; công thần khai quốc, công thần trung hưng, công thần trung tiết; thần núi, thần sông, thần các đảo; các vị thần kỳ chép trong diện sách tế tự, các từ đường). Ba bậc tế tự trên đều thuộc điển thờ của triều đình, do bộ Lễ quản lý và được chu cấp mọi mặt: Từ việc xây dựng, tu sửa, trang bị đồ thờ, chi phí thờ phụng trong di tích cho đến nhân sự phụ trách việc cúng tế, nhân công phục dịch…  Đối với thần linh của dân chúng ở các địa phương, việc quản lý cũng vô cùng quan trọng, bởi những thần linh này nếu đặt dưới sự giám quản chặt chẽ của triều đình cũng đồng nghĩa với việc tạo quyền uy của nhà vua trên cõi thiêng, có tác dụng to lớn để củng cố quyền lực thế tục.

Để thống nhất việc quản lý bách thần, vua Gia Long chú ý đến việc xây dựng các miếu Hội đồng - nơi thờ “tập trung” hệ thống thần linh của địa phương, trước tiên là những vùng đất trọng yếu, những vùng đất vốn là nơi cư trú của “kẻ thù” của nhà Nguyễn. Năm 1802, vua Gia Long cho dựng miếu Hội đồng ở Thừa Thiên (đất đứng chân của nhà Nguyễn), ở Bình Định (đất khởi nghiệp của nhà Tây Sơn). Năm 1803, miếu Hội đồng ở Thăng Long (Kinh đô cũ của nhà Lê - Trịnh), ở Quảng Ngãi (đất thang mộc ấp của nhà Tây Sơn) tiếp tục được xây dựng. Cũng trong năm này (năm 1803), vua đã “chuẩn cho các doanh, trấn làm một tòa miếu ở cõi tây bắc, trong miếu đặt 3 án thờ, án ở giữa và án bên tả hai án ấy thờ tất cả các vị dương thần, gian bên hữu che màn ngăn cách để thờ các vị âm thần; hai ban đông tây thờ các vị Đương cảnh, Thổ địa, Long thần, Ngũ phương, Hà bá thủy quan, Tiên sư, Thổ công, Táo quân, Trụ trạch, hàng năm hai tháng trọng xuân, trọng thu sau khi tế ở miếu công thần, gặp ngày Bính thì tế, lễ phẩm bằng tam sinh, ba mâm xôi; ở kinh thì quan ở công đường, ở ngoài thì quan ở trấn tuân phụ tế lễ”[1]. Đối với các vị thần Thành hoàng, Bình Định là nơi đầu tiên trong cả nước dựng miếu Thành hoàng. Tiếp đó, năm 1809, vua Gia Long cho dựng miếu Đô thành hoàng ở bên hữu kinh thành, với gian chính giữa thờ thành hoàng của Kinh đô Phú Xuân; phía bên tả thờ Thành hoàng ở Gia Định thành, Quảng Đức, Quảng Nam, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Bình Hòa, Bình Thuận, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên; phía bên hữu thờ Thành hoàng của Bắc Thành, Thanh Hóa, Nghệ An, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Thái Nguyên, Yên Quảng, Hưng Hóa, Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang.

Hơn nữa, nhằm đề cao tư tưởng Trung quân của Nho giáo và khẳng định tính “chính thống” của vương triều, vua Gia Long đã “gạt” ra khỏi hệ thống thờ tự những nhân vật thuộc các triều đại, được coi là “tiếm đoạt”, như triều Hồ, triều Mạc, họ Trịnh, triều Tây Sơn. Biện pháp hữu hiệu và có hiệu quả nhất là phong thần, cấp sắc cho bách thần tại các địa phương - thực chất là quá trình sàng lọc, tuyển chọn và giám quản thần linh theo tiêu chuẩn chính thống của vương triều. Những vị thần nào “có công đức sự tích” với nước, với dân mà phù hợp với triều đình nhà Nguyễn thì đều được xem xét, bao phong.

2. Ở nước ta, việc phong thần, cấp sắc cho các vị thần Thành hoàng đã có từ lâu. Những ghi chép trong sách Việt điện u linh tập (do Lý Tế Xuyên soạn vào thế kỷ XIV) và Lĩnh Nam chích quái (do Trần Thế Pháp soạn vào đầu thế kỷ XV) đã chứng minh, vào thời nhà Trần đã có sắc phong cho các thần Thành hoàng[2]. Chính sử nước ta cũng xác nhận: “Mùa hạ, tháng 4, năm Quang Thái thứ 3 - 1390, tôn thêm huy hiệu cho các tiên đế, tiên hậu và thụy hiệu cho các thần kỳ các nơi”[3]. Đến thời Hậu Lê (1428 - 1789), việc ban sắc phong trở lên phổ biến hơn[4]. Tuy nhiên, đạo sắc (được viết trên giấy sắc) có niên đại cổ nhất nước ta còn lưu giữ được, đó là đạo sắc của vua Lê Thánh Tông ban cho Thủy đạo Đại tướng quân thời Đinh (thế kỷ X) là Nguyễn Quảng Lại - thành hoàng làng Quang Lang (được thờ tại miếu Ba Thôn, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) vào các năm Hồng Đức thứ 23 (1492) và Hồng Đức thứ 28 (1497).

Khi vua Gia Long nhất thống sơn hà, đã tin cẩn giao cho Nguyễn Văn Thành giữ chức Tổng trấn Bắc Thành. Giúp việc cho Tổng trấn có ba tào là: Hộ tào kiêm chức của Công phòng (do Nguyễn Văn Khiêm quản lý), Binh tào kiêm chức của Lại phòng (do Đặng Trần Thường kiêm quản) và Hình tào kiêm chức của Lễ phòng (do Phạm Như Đăng lĩnh Hình bộ). Tháng 2 năm Giáp Tý (1804), các quan ở Bắc Thành đã “tâu xin phong tặng cho thần thiêng các địa phương. Sai xét hỏi rõ linh tích. Phàm vị nào có công đức với dân, các triều có phong tặng, thì làm danh sách tâu lên”[5]. Trên cơ sở đó, vua Gia Long đã chuẩn y lời nghị: “Về Bắc Thành, những bản danh sách các xã dân trong hạt khai thần hiệu trước đây, phàm Thân thần (vị thần là người được phong Phúc thần) hiện có họ tên công trạng, Thiên thần (có sự thiêng nhưng không sinh ra ở đời) có sự tích rõ rệt và danh thần ở núi sông, cùng hiện có sắc phong, thì liệt làm Hạng trên; thứ đến Nhân thần có họ tên mà công trạng chưa được rõ rệt, sắc phong có quan tước mà họ tên thất truyền, hoặc hiện có ghi quan, tước họ tên mà sắc phong thời lạc thì liệt ở Hạng giữa; lại thứ nữa như sắc phong tuy còn mà sự tích mai một, nhưng xét các mỹ tự là chính thần, thì liệt ở Hạng dưới. Đến như lúc còn sống làm sự nhơ nhuốc và tà dâm, những tinh khí ma quỷ, gỗ đá, những loài côn trùng quái vật phàm thuộc vào sự bất chính, đều nên tước bỏ”[6]. Đây là đợt phong thần, cấp sắc cho thần thiêng các địa phương đầu tiên dưới triều vua Gia Long[7] và cũng là đợt phong cấp sắc thần xảy ra nhiều “biến cố” nhất. Trước hết là sự kiện Đặng Trần Thường, khi làm việc ở Binh tào, dù biết sự việc “tướng Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc năm Giáp Ngọ (1774) vào lấn phương Nam, khi về bị chết ở dọc đường, người Trịnh phong làm Phúc thần” nhưng vẫn “liệt lẫn vào điển thờ”, khiến cho Tả Tham tri bộ Lễ là Nguyễn Gia Cát tin theo mà gia tặng là Thanh danh văn võ thánh thần Đại vương. Việc làm của Đặng Trần Thường, dù vô tình hay cố ý, cũng khiến toàn bộ triều thần đình nghị, xét đi xét lại nhiều lần. Vua Gia Long khi biết sự việc cũng vô cùng tức giận khi cho rằng: “Đăng trật cho bách thần là điển lễ lớn ở buổi đầu của Nhà nước. Bọn ngươi làm gian trá, dối người khinh thần, không tội nào lớn bằng. Vả cuộc biến loạn năm Giáp Ngọ, Hoàng Ngũ Phúc chính là thủ ác, nay lại cất lên mà cho là thần, thế chẳng phải bán tước sao? Việc ấy còn nỡ thì việc gì lại chẳng nỡ!”. Trong khi đó, Thiêm sự bộ Lễ là Vũ Quý Dĩnh, con trai (Nguyễn Gia Cát) là Nguyễn Dục và em vợ (Nguyễn Gia Cát) là Cống sĩ Tô Văn Dâu lợi dụng việc phong cấp sắc thần của triều đình để “làm sắc giả, phong cho ông cha và bố mẹ vợ mình làm Phúc thần”, “khiến điển thờ đảo lộn nhầm lẫn rất nhiều” là việc làm hoàn toàn sai trái, và tất nhiên, họ bị xử phạt một cách nghiêm khắc: Vũ Quý Dĩnh bị tội trảm (chém đầu), Nguyễn Dục bị tội đồ, những người khác đều bị giáng và phạt khác nhau. Tham quân Lê Chấn cũng vì nhận riêng một đạo thần sắc phần hoàng nên bị giáng xuống làm Điển quân. Tất cả hơn 560 đạo “sắc giả” được khâm ban trong đợt này, các “thành trấn ấy thông sức cho các xã dân phải thu nộp tất cả, để chờ chỉ cho đốt đi”. Có thể nói, đây là đợt làm “sắc giả” lớn nhất, duy nhất bị phát hiện và nghiêm trị dưới thời quân chủ của nước ta.

3. Dù việc làm sắc giả diễn ra từ năm 1804 nhưng phải đến tận năm 1811 mới được phát hiện và đưa ra xét xử. Nguyên do là tại đâu?

Nghiên cứu về sự nghiệp của Đặng Trần Thường, chúng tôi nhận thấy, đây là một nhân vật lịch sử có nhiều điểm đáng chú ý. Sinh ra ở vùng đất nổi danh về nghiệp võ (họ Đặng ở thị trấn Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ, Hà Nội), muốn làm quan cho nhà Tây Sơn nhưng không được chấp nhận (vì có mâu thuẫn với Ngô Thì Nhậm) nên ông vượt biển vào Gia Định phù giúp chúa Nguyễn Ánh. Vì có nhiều quân công trong sự nghiệp “phục hưng” nên khi đất nước thái bình, Đặng Trần Thường được giao chức trách quản lý Binh tào (kiêm quản mọi hoạt động của Lại phòng). Từ cuối năm 1802 đến cuối năm 1809, Đặng Trần Thường đã trở thành vị quan “đắc lực” cho Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành[8], trước khi ông được triệu về Kinh giữ chức Thượng thư Binh bộ. 

Đặng Trần Thường và Lê Chất vốn có hiềm khích với nhau. Năm 1802, vua Gia Long thăng chức cho Lê Chất làm Khâm sai Chưởng Hậu quân Bình Tây tướng quân, tước Quận công, Đặng Trần Thường đã nói rằng: “Chất mà bình Tây thì ai bình Chất, Chất mà Quận công thì ta nên mười Quận công”. Câu nói đó đã trở thành “nguồn cội” kể tội Đặng Trần Thường khi Lê Chất được cử làm Hiệp Tổng trấn Bắc Thành vào năm 1810. Tiểu truyện Đặng Trần Thường có chép rõ: “Kịp ra trấn Bắc Thành, nghe Thường trước kia sửa khai thần sắc có tội về ở thành ẩn giấu việc Hoàng Ngũ Phúc vào xâm lấn trong Nam kê liệt hàm hỗn vào tự điển; lại cho những người thân tình man khai phúc thần, cùng với Tham tri bộ Lễ là Nguyễn Gia Cát cùng giúp nhau mạo cấp sắc phong. Bèn đem việc ấy phát ra, Thường dâng sớ xin nhận tội”[9].

Như vậy, từ mối “hiềm khích” giữa Đặng Trần Thường với Lê Chất mà vụ án “sắc giả” mới bị phát hiện vào tháng 5 năm Tân Mùi (1811).

4. Mấu chốt của vụ án “sắc giả” đầu triều Nguyễn gắn với ba nhân vật chính, đó là Hoàng Ngũ Phúc, Đặng Trần Thường và Nguyễn Gia Cát.

Hoàng Ngũ Phúc là một nhân vật lịch sử “đánh đông dẹp tây, công danh rực rỡ, là bậc đại tướng có huân lao danh vọng. Nhà nước (chỉ triều đình Lê - Trịnh) cậy dựa nhiều vào ông. Khi ông chết, được phong Phúc thần hạng trên, được phối hưởng trong cung miếu của nhà chúa”[10]. Sự nghiệp cũng như cống hiến của Hoàng Ngũ Phúc đối với triều đình Lê - Trịnh thế kỷ XVIII đã được ghi nhận và tôn vinh trong Hội thảo khoa học Danh nhân lịch sử Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc tổ chức ngày 12 tháng 7 năm 2009 (sau đó được Nxb. Thế giới xuất bản vào năm 2010). Sự kiện năm Giáp Ngọ (1774), nếu đặt trong bối cảnh lịch sử chung của đất nước Đại Việt khi đó, có vị trí vai trò rất quan trọng, “tạo tiền đề thuận lợi cho phong trào nông dân Tây Sơn giành thắng lợi trọn vẹn sau này”, đặc biệt là “đối với việc hoàn chỉnh bờ cõi nước Việt ở cuối thế kỷ XVIII”[11]. Ở chiều ngược lại, đối với chúa Nguyễn nói chung với vua Gia Long nói riêng, thì hành động Nam chinh của quân Lê - Trịnh năm 1774 là nguyên nhân chính lật đổ nền thống trị của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, trong đó, Hoàng Ngũ Phúc chính là “thủ ác”.

Đặng Trần Thường, khi ở thành tào, tuy phụ trách công việc của Binh tào và Lại phòng nhưng lại là người tham gia trực tiếp vào việc kê khai sắc phong thần (đúng ra công việc này thuộc Lễ phòng do Hình bộ Phạm Như Đăng quản lý), và cũng không rõ lý do vì sao, vô tình hay cố ý mà ông lại “giấu việc ấy đi, liệt lẫn vào điển thờ”. Trong khi đó, Nguyễn Gia Cát, người đỗ Tiến sĩ và giữ chức Đốc học của nhà Lê, sau theo vua Gia Long, được bổ chức Đốc học, rồi “làm Cần Chính điện Đại học sĩ kiêm Chế cáo lệnh, cùng với Phạm Thích họp làm công việc từ chương ở Bắc Thành”[12], sau thăng lên chức Tả Tham tri Lễ bộ. Vì lúc này chưa đặt chức Thượng thư nên Nguyễn Gia Cát và Hữu Tham tri Lê Chính Lộ là hai người quản lý mọi công việc của bộ Lễ, trong đó có việc phong thần, cấp sắc cho thần linh bốn phương.

Hai người vốn xuất thân là kẻ sĩ Bắc Hà, cùng làm quan với những trọng  trách dưới đời vua Gia Long và cùng liên quan đến một nhân vật lịch sử nổi danh của Đàng Ngoài. Phải chăng có “ẩn ý” đằng sau vụ án này? Bởi rằng, khi nghiên cứu về Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc, có tác giả đã nhận định rằng: “Việc đánh giá công lao cũng như gia tặng ông như Đặng Trần Thường và Nguyễn Gia Cát đã làm cần được tiến hành một cách đầy đủ và nghiêm túc”[13].

5. Khi vụ án “sắc giả” bị phát hiện vào tháng 5 năm Tân Mùi (1811), vua Gia Long giao cho Hình bộ nghị tội. Thượng thư Hình bộ (quản lĩnh Hình tào ở Bắc Thành) Phạm Như Đăng cho rằng, tội của Đặng Trần Thường nên cách chức, còn Nguyễn Gia Cát nên xử tử. Hữu Tham tri Hình bộ là Lê Bá Phẩm luận rằng, Trần Thường và Gia Cát tội giống nhau, cùng tội mà phạt khác thì không đúng hình, nên đều xử tội chết. Vì bộ Hình chưa có sự thống nhất nên đã tâu trình lên vua, Gia Long sai đình thần xét lại.

Nguyễn Văn Thành (đương giữ chức chức Chưởng Trung quân - người đứng đầu quân đội triều Nguyễn khi đó) tâu trình rằng, dẫu Trần Thường và Gia Cát vẫn là có tội, nhưng lấy công chuẩn lỗi thì còn có Bát nghị. Theo bộ Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long) của Vương triều Nguyễn thì Bát nghị (Tám trường hợp được xét miễn giảm) gồm: Nghị thân, Nghị cố, Nghị công, Nghị hiền, Nghị năng, Nghị cần, Nghị quý và Nghị tân. Xét kỹ những quy định của Bát nghị, Đặng Trần Thường được hưởng Nghị cố (người có công phò tá vua Gia Long phục quốc), Nghị công (hàng công thần giúp vua Gia Long chém tướng đoạt cờ, dẹp yên giặc dữ ngoài vạn dặm), Nghị năng (người có đủ tài tăng về quân sự và chính trị), Nghị cần (hạng quan cao tướng mạnh siêng cần việc quan, sớm tối chăm lo việc công), Nghị quý (giữ chức Thượng thư bộ Binh, phẩm hàm chánh Nhị phẩm); còn Nguyễn Gia Cát hưởng Nghị quý (giữ chức Tả tham tri bộ Lễ, phẩm hàm tòng Nhị phẩm)[14]. Viện dẫn của Nguyễn Văn Thành hoàn toàn có cơ sở, bởi từ trước đến nay, những người phạm tội, nếu không phải là Thập ác, đều có thể chiếu theo Bát nghị để được miễn tội. Bản thân ông cũng là người rất am hiểu về luật lệ, được vua Gia Long chỉ định làm Tổng tài bộ Hoàng Việt luật lệ - tập đại thành của toàn bộ nền pháp luật của Vương triều Nguyễn. Việc Nguyễn Văn Thành đứng ra tâu bày cho Đặng Trần Thường và Nguyễn Gia Cát xuất phát từ lẽ phải, từ sự trân trọng công lao cũng như giúp đỡ những người hoạn nạn khi cần thiết, chứ không phải do “bao biện” hay “thiên vị”. Rõ ràng trong sự việc này, hành động của Nguyễn Văn Thành là công tư phân minh, dù rằng, ông và Đặng Trần Thường là hai người có gắn bó mật thiết với nhau, đã từng vào sinh ra tử trên chiến trường trong công cuộc phục hưng đất nước cũng như trong quá trình làm quan ở Bắc Thành. Chính vì vậy, quan điểm của Nguyễn Văn Thành đã được Thượng thư Hộ bộ Lê Quang Định, Tả Tham tri Công bộ Nguyễn Đức Huyên, Hữu Tham tri Hộ bộ Nguyễn Hữu Thận đồng tình ủng hộ.

Trong khi đó, Thượng thư Lễ bộ Trịnh Hoài Đức, Thượng thư Lại bộ Trần Văn Trạc lại theo lời nghị của Phạm Như Đăng. Triều thần bàn mãi không quyết định được, cuối cùng phải tâu trực tiếp lên vua. Gia Long theo lời tâu của Lê Bá Phẩm, bèn giam hậu Đặng Trần Thường và Nguyễn Gia Cát. Nguyễn Văn Thành, vì vua cho là “bênh vực, che chở cho người có tội” nên bị “phạt 3 con trâu”[15].

Quyết định trên của vua Gia Long có phần không thỏa đáng, bởi hơn hai năm sau, tháng 9 năm Quý Dậu (1813), vua đã tha tội chết cho Đặng Thần Thường và Nguyễn Gia Cát, vì “vua xét danh sách thu thẩm[16], nghĩ thương bọn Đặng Trần Thường có công tha cho. Xóa tên trong quan tịch, cho ở Kinh”[17]. Điều đó đã chứng minh cho lòng nhân ái (có tinh thần thương người, sẵn sàng giúp đỡ khi cần thiết) và công bằng (theo đúng lẽ phải, không thiên vị) của Nguyễn Văn Thành.

Trước vụ án này, lòng nhân ái và công bằng của Nguyễn Văn Thành cũng được thể hiện rõ nét. Năm 1785, sau một thời gian “trú chân” tại Vọng Các (thủ đô của nước Thái Lan ngày nay), khi trở về, vua Xiêm muốn giúp quân thu phục Gia Định, Nguyễn Văn Thành đã khuyên chúa Nguyễn Ánh không nên đồng ý, vì “lính Xiêm tàn ngược không nên nhờ họ giúp, nếu nhờ binh lực họ mà thành công lại có sự âu lo sau”. Tầm nhìn xa trông rộng của ông đã được chứng minh, bởi quân Xiêm La không chỉ tàn ngược mà còn có dã tâm mở rộng ảnh hưởng của mình sang vùng Nam Bộ (đồng bằng sông Cửu Long ngày nay). Cũng trong thời gian ở nước Xiêm La, có lần ông được chúa sai đem 1.000 lạng bạc đi Chiêm Kha để đong thóc. Giữa đường gặp quan quân mắc nợ tiền bạc với người Xiêm, họ dữ dằn đòi nợ rất khổ. Thấy thương người, ông đã dốc túi, đem toàn bộ số bạc đó trở nợ và đi về tay không.

Có một sự kiện minh chứng cho lòng nhân ái của Nguyễn Văn Thành, nhưng kết quả thu được là hoàn toàn trái ngược nhau. Sự việc xảy ra vào mùa đông năm Mậu Thìn (1808), khi ông “làm biểu dâng xin thu dụng hai người bị cách là Nguyễn Duy Hòa và Trần Văn Tuân”[18].

Nguyễn Duy Hòa trong thời gian giữ chức Tham tri Hình bộ lĩnh Hình tào ở Bắc Thành có làm việc cùng với Tổng trấn Nguyễn Văn Thành. Vốn cùng làm quan ở Bắc Thành nên Nguyễn Văn Thành thường dâng sớ “khen tiếng mới được tiếng hay” nên Nguyễn Duy Hòa được bổ chức Hiệp trấn Sơn Nam Thượng. Trong quá trình làm việc, Duy Hòa vì “có tội phải cách chức”. Năm 1808, Nguyễn Văn Thành dâng sớ nói: “Người ấy có khí thức, xin cho lục dụng”. Vua tin tưởng, cho khởi phục Duy Hòa lãnh chức Hiệp trấn Sơn Nam Hạ, sau điều bổ làm Hiệp trấn Kinh Bắc, rồi giữ chức Ký lục Quảng Trị. Khi xảy ra vụ án con trai ông là Nguyễn Văn Thuyên vì làm bài thơ, trong đó có câu “lời nói có ý bội nghịch”, bị bắt giam vào ngục. Sau nhờ cha có nhiều công trạng nên Thuyên được thả cho về. Duy Hòa thấy vậy, đã dâng vua một tờ sớ đàn hặc tội lỗi của Nguyễn Văn Thành và con trai. Việc làm của Nguyễn Duy Hòa đã bị nhiều người lên án, “người thân cố cho là việc làm ấy quá lắm”[19].

 Trần Văn Tuân lại có thái độ ứng xử với “ân nhân” hoàn toàn khác so với Nguyễn Duy Hòa. Trong vụ án liên quan đến con trai của ông, sau nhiều lần bàn bạc, năm 1816 khi án thành dâng lên triều đình, quần thần đều khép cha con Nguyễn Văn Thành vào tội chết, “chỉ có Tham tri bộ Lại là Trần Văn Tuân nói rằng, Thành không biết dạy con, tội nhẹ. Duy Hòa hạch đại thần tội nặng, vua nói rằng thế thì muốn khóa miệng người ta lại à, há chả phải bằng danh à?”[20]. Vua chưa quyết, sai đình thần bàn lại. Cuối cùng, Nguyễn Văn Thành vẫn phải “uống thuốc độc mà chết” vào năm 1817.

Cái chết “oan uổng” của Nguyễn Văn Thành, hơn 30 năm sau, mới được “giải oan”. Năm 1848, Đông các Đại học sĩ Vũ Xuân Cẩn dâng sớ tâu rằng: “Sách Chu Lễ có 8 điều nghị để rộng tha người có tội, sách Tả truyện có câu tha tội đến 10 đời để đãi người có công, đều là đạo trung hậu thường thiện lâu dài mà bạc ác thì ngắn vậy… Trong ấy có Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, Lê Chất, đều là gặp hội gió mây theo đòi tên đạn, thân làm Đại tướng, tước đến Quận công. Khoảng đời Gia Long, Thành không biết dạy con tức giận tự tử, về sau con cháu lại nhận giặc hàm, phải án theo ngụy rồi bị giết cả…, nay công và tội lũ Thành so với lũ Lý Thế Tích, Trần Nguyên Hãn cũng là giống nhau. Nếu vì có tội không xét đến công thì những người trăm trận gian nan, nên hồn linh lạc làm đom đóm ma trơi, đều là ma không ai thờ cúng…”. 20 năm sau, tháng 3 năm Mậu Thìn (1868), vua Tự Đức chính thức khôi phục phẩm hàm và danh dự cho những huân thần bị hàm oan là Nguyễn Văn Thành (phục chức Vọng Các công thần, Chưởng Tiền quân Bình Tây Đại tướng quân, Quận công), Lê Văn Duyệt (Vọng các công thần Chưởng Tả quân Bình Tây Đại tướng quân, Quận công), Đặng Trần Thường (truy phục làm Tham tri bộ Lại), Lê Văn Quân (Bình Tây Đô đốc), Lê Chất (Tả đồn Đô Thống chế). Lý do quan trọng nhất để hóa giải nỗi hàm oan cho những huân thần, đó là “nghĩ lại công trước, để tỏ ý ghét người xấu thì ít mà yêu người tốt thì nhiều, nhân sai tra xét công tội, thân tự quyết định”. Nói một cách khác, việc Nguyễn Văn Thành căn cứ vào tiêu chuẩn “lấy công chuẩn lỗi” để xin giảm án cho Đặng Trần Thường và Nguyễn Gia Cát vào tháng 5 năm Tân Mùi (1811) cũng chính là cách thức mà vua Tự Đức đã làm đối với bản thân mình vào tháng 3 năm Mậu Thìn (1868).

Người có lòng nhân ái và công bằng như Nguyễn Văn Thành, xứng đáng được lịch sử và hậu thế ghi nhận, tôn vinh./.

 

 

 

 

 


[1] Nội các triều Nguyễn: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập IV, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2005, tr. 333.

[2]. Nguyễn Minh Tường: “Tín ngưỡng thờ thần Thành hoàng trong các làng xã Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội, số 10 (71)-2013, tr. 103.

[3]. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr. 181.

[4]. Theo sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn (Nxb. Văn hóa - Thông tin, HN, 2007): Tháng 4 năm Ất Mùi (1715) cho biết: Tháng 4 năm Ất Mùi (1715), “triều đình hạ lệnh cho quan chức hai ty (Thừa chính sứ ty và Hiến sát sứ ty) các xứ xét trong bản xứ có thần từ tối linh, thì hiểu bảo dân địa phương khai sổ trình bày đủ bằng chứng, dấu tích đệ nộp kịp kỳ hạn, để giao quan xét duyệt và định thứ tự phong sắc” (tr. 510). Kết quả là, khi “tra cứu từ điển các xứ, đền thờ Thượng đẳng thần 832 ngôi, Thượng Trung đẳng 1 ngôi, Trung đẳng 817 ngôi, Trung hạ đẳng 1 ngôi, Hạ đẳng 860, cộng 2.511 ngôi” (tr. 65).

[5]. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập I, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2005, tr. 588. Cùng sự kiện này, sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ chép: “Gia Long thứ 2, chiếu cho Bắc Thành và các trấn Thanh, Nghệ, những đền thờ thần ở các huyện, xã, trừ bỏ ra các dâm từ và không có công đức sự tích, còn thì hiện có công đức sự tích là bao nhiêu vị, đều cho làm sổ đệ tâu chờ phong” (tập IVB, tr. 345).

[6]. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập IVB, Sđd, tr. 345.

[7]. Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ cho biết thêm: “Năm Gia Long thứ 9, chuẩn y lời tâu: Phàm đế vương, hậu phi các đời, biển cấp sắc chỉ đều 1 đạo; các hiệu thần kỳ dự ở vào tặng cấp, thì biển cấp tặng sắc đều một đạo, chiếu cấp cho các xã dân ấy lĩnh về phụng sự” (tập IVB, tr. 345).

[8]. Nguyễn Văn Thành giữ chức Tổng trấn Bắc Thành từ tháng 9 năm Nhâm Tuất (1802) đến tháng Giêng năm Canh Ngọ (1810). Xen giữa khoảng thời gian đó, Trương Tấn Bửu là người quyền lãnh chức Tổng trấn Bắc Thành, khi tháng 11 năm Bính Dần (1806), vua Gia Long cho triệu Nguyễn Văn Thành về Kinh đô Phú Xuân.

[9]. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam liệt truyện, tập II, Viện Sử học và Nxb. Thuận Hóa, 2006, tr. 528.

[10]. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, tập I, Nxb. Giáo dục, HN, 2007, tr. 427.

[11]. Danh nhân lịch sử Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nxb. Thế giới, HN, 2010, tr. 40, tr. 309.

[12]. Đại Nam thực lục, tập I, Sđd, tr. 563.

[13]. Danh nhân lịch sử Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc, Sđd, tr. 28.

[14]. Viện Sử học: Cổ luật Việt Nam: Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ, Nxb. Giáo dục, HN, 2009, tr. 282 - 284.

[15]. Đại Nam liệt truyện, tập II, Sđđ, tr. 413.

[16]. Theo quy định, các phiên xử án thường tổ chức vào đầu mùa thu, nếu chưa có phán quyết cuối cùng thì phải đợi đến mùa thu năm tới mới quyết án chung thẩm (nên gọi là Thu thẩm). Thu thẩm là hình thức thể hiện rất rõ tinh thần nhân đạo của bộ luật Hoàng Việt luật lệ.

[17]. Đại Nam thực lục, tập I, Sđd, tr. 866.

[18]. Đại Nam liệt truyện, tập II, Sđđ, tr. 412.

[19]. Đại Nam liệt truyện, tập II, Sđđ, tr. 368.

[20]. Đại Nam liệt truyện, tập II, Sđđ, tr. 418.