Quận công Nguyễn Văn Thành
Than ôi!
Trời Đông Phố vận ra Sóc Cảnh[1], trải mấy phen lao khổ mới có ngày nay;
Nước Lô Hà[2] chảy xuống Lương Giang[3], nghĩ những kẻ điêu linh kể từ thuở nọ.
Cho hay sinh là ký mà tử là quy; mới biết mệnh ấy yểu mà danh ấy thọ.
Xót thay!
Tình dưới viên mao[4].
Phận trong giới trụ[5].
Ba nghìn họp con em đất Bái[6], cung tên ngang dọc chí nam nhi;
Hai trăm vây bờ cõi non Kỳ[7], cơm áo nặng dày ơn cựu chủ.
Liều thân cho nước, son sắt một lòng;
Nối nghĩa cùng thầy, tuyết sương mấy độ.
Kẻ thời theo cơ đích[8] bước sang miền khách địa, hăm hở mài nanh giũa vuốt, chỉ non Đoài thể chẳng đội trời chung;
Kẻ thời tránh việt mao[9], liều mệnh chốn sa trường, dập dìu thẳng cánh giương vây, trông cõi Bắc quyết thu về đất cũ.
Nằm gai nếm mất, chung nỗi ân ưu;
Mở suối bắc cầu, riêng phần lao khổ.
Trước từng trải Xiêm La, Cao Miên về Gia Định, mới dần ra Khánh, Thuận[10], đã mấy buổi sơn phong hải lễ[11], trời Cao, Quang[12] soi tỏ tấm kiên trinh;
Rồi lại từ Đồ Bàn, Nam, Ngãi[13] lấy Phú Xuân mà thẳng tới Thăng Long, biết bao vũ pháo vân thê[14], đất Lũng, Thục[15] lăn vào nơi hiểm cố.
Phận truy tùy gẫm lại cũng cơ duyên;
Trường tranh đấu biết đâu là mệnh số.
Kẻ thời chen chân ngựa, quyết giật cờ trong trận, xót nhẽ gan vàng mà mệnh bạc, nắm lông hồng theo đạn lạc tên bay;
Kẻ thời bắt mũi thuyền toan cướp giáo giữa dòng, thương thay phép trọng để thân khinh, phong da ngựa mặc bèo trôi sóng vỗ.
Hồn tráng sĩ biết đâu miền minh mạc[16], mịt mù gió lốc, thổi dấu tha hương;
Mặt chinh phu khôn vẽ nét gian nan, lập lòe lửa chơi, soi chừng cổ độ[17].
Ôi! Cùng lòng trung nghĩa, khác số đoản tu[18]
Nửa cuộc công danh, chia phần kim cổ.
Đoái là tiếc xương đồng da sắt, thanh bảo hiếm đã chăm rèn mới có, nợ áo cơm phải trả đến hình hài;
Những là khen dạ đá gan vàng, bóng bạch câu[19] xem nửa phút như không, ơn dày đội cũng cam trong phế phủ[20].
Phận dù không gác khói đài mây[21];
Danh đã dậy ngàn dâu nội cỏ.
Tiếc vì thuở theo cờ trước gió, thân chẳng quản màn sương đệm giá, những chờ xem cao thấp bậc cân thường[22];
Tiếc cho khi nhỡ bước giữa dòng, kiếp đã về cõi suối làng mây, nào kịp thấy ít nhiều ơn vũ lộ.
Vâng Thượng đức hồi loan tháng trước, đoàn ứng nghĩa dẫu Quảng, Thuận[23], Nghệ, Thanh cũng vậy, đội ân quang gieo khắp xuống Đèo Ngang[24];
Mà những người từng thượng trận ngày xưa, rắp tấu công từ Ngọ, Vị, Thân, Dậu[25] đến giờ, theo tính tự để nằm theo lá sổ.
Ngọn còi rúc nguyệt, nơi tẻ nơi vui;
Dịp trống dồn hoa, chốn tươi chốn ủ.
Đã biết anh hùng thì chẳng quản, trăm trận một trường oanh liệt, cái sinh không cái tử cũng là không;
Nhưng tiếc cho Tạo hóa khéo vô tình, ngàn năm một hội tao phùng, phận thủy có, phận chung sao chẳng có.
Bản tước nay:
Vâng việc biên phòng;
Trạnh niềm viễn thú.
Dưới trướng nức mùi chung đỉnh, sực nhớ khi chén rượu rót đầu ghềnh;
Trong nhà rỡ vẻ áo xiêm, trạnh nghĩ buổi tấm cừu hong trước gió.
Bâng khuâng kẻ mất người còn;
Tưởng tượng thầy đâu tớ đó.
Nền phủ định[26] tới đây còn xốc nổi, ngụ lòng một lễ, chén rượu thoi vàng;
Chữ tương đồng gẫm lại vốn đinh ninh, khắp mặt ba quân, cờ đào áo đỏ.
Có cảm thông thì tới đó khuyên mời;
Dù linh thính hãy nghe lời dạy dỗ.
Trường chinh chiến hoặc là oan hay chẳng, cũng chớ nề kẻ trước, người sau, hàng trên, lớp dưới, khao thưởng rồi, sẽ tấu biểu dương cho;
Hội thăng bình đừng có nghĩ rằng không, dù ai còn cha già mẹ yếu, vợ góa, con côi, an tập hết, cũng ban tồn tuất đủ.
Hồn phách đâu đều ngày tháng Thuấn, Nghiêu;
Hài cốt đó cũng nước non Thang, Vũ[27].
Cơ huyền diệu hoặc thăng trầm chưa rõ, thiêng thời về cố quận, để hương thơm lửa sáng, kiếp tái sinh lại nhận cửa tiền quân;
Niềm tôn thân dù sinh tử chớ nề, thiêng thì giúp Hoàng triều, cho bể lặng sông trong, duy vạn kỷ chửa rời ngôi bảo tộ[28].
Hỡi ôi! Thượng hưởng!
[1]. Đông Phố: tên cũ thành Gia Định, Sóc Cảnh là cõi Bắc, ý nói từ Gia Định tới Hà Nội.
[2]. Lô Hà: chỉ sông Lô Giang.
[3]. Lương Giang: tức Phú Lương giang, tên cũ của sông Hồng Hà.
[4]. Viên Mao: Viên là viên môn, cửa dinh quan Đại tướng, Mao là cờ tiết mao, hiệu lệnh trong quân.
[5]. Giới trụ: áo giáp, mũ trụ của các tướng sĩ.
[6]. Đất Bái: nơi Hán Cao tổ họp 3.000 người khởi binh đánh Sở.
[7]. Non Kỳ: nơi nhà Chu sáng nghiệp, núi non hiểm trở, hai trăm người địch nổi hai nghìn người.
[8]. Cơ đích: hàm thiếc, dây cương, ý nói theo vua giữ ngựa. Đây chỉ hồi Gia Long thua trận chạy sang Thái Lan.
[9]. Việt Mao: Cái phủ việt, lá cờ tiết mao.
[10]. Khánh, Thuận: Khánh Hòa, Bình Thuận.
[11]. Sơn phong, hải lễ: Sơn phong là gió núi, do chuyện Gia Long thoát vòng vây của Tây Sơn ở Côn Lôn nhờ gió bão làm đắm thuyền Tây Sơn; hải lễ là nước ngọt ở bể do chuyện Gia Long đi bể, hết nước ngọt uống, tìm được dòng nước ngọt.
[12]. Cao, Quang: chỉ Hán Cao tổ và Hán Quang vũ, hai ông vua có công lập ra nhà Hán.
[13]. Đỗ Bàn, Nam, Ngãi: Đỗ Bàn là kinh đô cũ của Chiêm Thành, nay là tỉnh Bình Định; Nam, Ngãi là Quảng Nam, Quảng Ngãi.
[14]. Vũ pháo, vân thê: đạn nhiều như mưa, thang leo thành cao giáp mây.
[15]. Lũng, Thục: Lũng Tây ở tỉnh Thiểm Tây, Ba Thục ở tỉnh Tứ Xuyên bên Trung Quốc, tên những nơi hiểm trở.
[16]. Minh mạc: tối tăm mênh mang.
[18]. Đoản tu: đoản là ngắn, tu là dài, ý nói người sống lâu, người chết non.
[19]. Bóng bạch câu: ý nói đời người thấm thoắt trôi nhanh như bóng ngựa trắng chạy qua cửa sổ, thoáng mắt đã mất.
[20]. Phế phủ: buồng phổi và phủ tạng trong người.
[21]. Gác khói, đài mây: Vua Đường Thái Tông vẽ hình công thần treo trên Yên Các (gác khói), vua Hán Minh Đế vẽ hình tranh công thần treo ở Vân Đài (đài mây).
[22]. Cân, thường: những người có công được thêu tên vào cờ cân và cờ thường. Cờ có hình mặt trời, mặt trăng, con giao long.
[23]. Quảng, Thuận: Quảng Trị, Thuận Hóa.
[24]. Đèo Ngang: tên một đèo ở giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình.
[25]. Từ Ngọ, Vị, Thân, Dậu đến giờ: từ năm 1798 đến 1801.
[26]. Nền phủ định: do chữ “can qua phủ định”, nghĩa là việc đánh dẹp vừa yên.
[27]. Cả câu này có ý nói các vong hồn đều được ở trong cảnh thái bình như thời Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ bên Trung Quốc.
[28]. Ngôi bảo tộ: ngôi vua.