LỜI GIỚI THIỆU

Website  honguyenquancong.com là kênh thông tin chính thức của dòng họ

Nguyễn Huế - Gia Định, là diễn đàn trao đổi giữa các chi họ Nguyễn trong

và ngoài nước. Ban quản trị Website mong muốn nhận được bài viết, hình

ảnh về các hoạt động của các chi họ để trang Web thêm phong phú, đa dạng.

Mọi thông tin xin gửi về địa chỉ Email: honguyenquancong@gmail.com hoặc

duyhung12258@gmail.com. 

Về tờ sớ “Nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm đầu” gửi Vua Gia Long năm 1810 và tấm lòng thương dân của vị Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành

Ths. Bùi Văn Huỳnh, PGS.TS. Nguyễn Minh Tường - Viện Sử học

Sách Đại Nam thực lục ghi lại một sự kiện vào mùa Xuân, tháng Giêng năm Canh Ngọ (1810) như sau: “Dân Bắc Thành bị đói. Trước là trấn Kinh Bắc, Hải Dương, Yên Quảng, Sơn Nam hạ bị hạn và lụt, thành thần đem việc thiên tai báo lên. Sai hoãn việc đòi lính, nghỉ hỏi kiện vặt, bãi các công dịch, lại sai thành thần bàn kỹ chính sách cứu đói. Nguyễn Văn Thành dâng sớ nói: “Nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm đầu”. Sau khi các trấn bị thiên tai, nhân dân ngày càng đói lắm. Xin bàn cách phát chẩn và cho vay, để đỡ túng ngặt cho dân, cấm chọn tiền để dân tiêu dùng được dễ.

            Vua đều theo lời. Sai phát thóc kho ra 30.000 hộc, khiến bọn Trương Tấn Bửu, Phạm Như Đăng, Nguyễn Đình Đức chia đi các nơi chẩn cấp…”[1].

            Tờ sớ mà Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành gửi lên vua Gia Long mở đầu bằng một câu châm ngôn: “Nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm đầu”. Vấn đề là xuất xứ câu này từ đâu mà ra?

            Sách Từ Nguyên 辭 源 viết: “民 天,謂 糧 食 也。管 子: “王 者 以 民 為 天”。民 以 食 為 天”。沈 約 文: 深 樹 國 本,克 阜 民 天”[2]. (Dân thiên: “vị lương thực dã. Quản tử: “Vương giả dĩ dân vi thiên. Dân dĩ thực vi thiên. Thẩm Ước văn: Thâm thụ quốc bản, khắc phụ dân thiên”. Nghĩa là: “Trời của dân, để chỉ lương thực. Sách Quản tử có câu: “Bậc Vương giả coi dân là trời, mà dân thì coi cái ăn là trời”. Thẩm Ước giải thích: Muốn cho gốc nước vững bền, phải làm cho đầy đủ lương thực).

            Các nhà chú thích đời sau đều cho rằng ở câu nói trên trong sách Quản tử thì: Vương giả 王 者 đồng nghĩa với Quốc 國 (Nước), còn Thiên 天 (Trời) đồng nghĩa với Bản 本 (Gốc) hoặc với Thủ 首 (Đầu tiên). Do vậy, nhiều nhà chính trị, trong đó có Tổng trấn Nguyễn Văn Thành khi nhắc lại câu nói trên đây, đã diễn giải thành: “Nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm đầu”.

            Nhưng tư tưởng “Quốc dĩ dân vi bản” - 國 以 民 為 本 (Nước lấy dân làm gốc) lại không phải của Quản tử, tức Quản Trọng, giữ chức Tướng quốc dưới thời Tề Hoàn công (685-643 tr. Cn), mà được ghi chép đầu tiên trong sách Kinh Thư (書 經 – Thư Kinh). Trong thiên Ngũ tử chi ca - 五 子 之 歌 viết: “民 惟 邦 本,本 固 邦 寧” - “Dân duy bang bản, bản cố bang ninh” (Chỉ có dân là gốc của nước, gốc bền thì nước mới yên). Đó là khởi đầu cho tư tưởng Thân dân 親 民 (gần gũi, thương yêu dân chúng) của Nho gia sau này. Khổng Tử (551-479 tr. Cn) là người đầu tiên nói tới Nhân 仁 và Nghĩa 義, sau đó Mạnh Tử (372-289 tr. Cn) nói đến Nhân nghĩa 仁 義 và Nhân chính 仁 政, đều thuộc lĩnh vực Thân dân cả.

            Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nguyễn Trãi (1380-1442) là người nói nhiều đến tư tưởng Nhân nghĩa và thực hiện tư tưởng ấy trong đời sống xã hội nhiều hơn cả. Theo Nguyễn Trãi: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” (Bình Ngô đại cáo), “Quân của Vương giả chỉ có dẹp yên mà không có đánh chém. Việc làm nhân nghĩa cốt để yên dân” (Thư gửi Liễu Thăng). Những nhà chính trị theo học thuyết Nho gia, như Nguyễn Trãi thế kỷ XV, hoặc Nguyễn Văn Thành, thế kỷ XIX bao giờ cũng thấy mình có trách nhiệm: “nuôi dân”, “chăn dân” và “huệ dân”.

            Lòng thương người, tình người, sự chân thành, sự khoan dung độ lượng có thể cảm hóa được những kẻ lầm đường, những người trộm cắp, thậm chí kể cả kẻ thù địch khi đã đầu hàng là nét độc đáo trong tư tưởng nhân nghĩa của các nhà chính trị tài ba, có tâm đức như Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành.

            Ở đây, chúng ta đều biết không phải ngẫu nhiên mà vua Gia Long lại lựa chọn Nguyễn Văn Thành trong số tướng tài, thân cận của mình, để trao cho trọng trách Tổng trấn Bắc thành, phụ trách 11 trấn phía Bắc quốc gia Việt Nam thời bấy giờ. Chính sử của nhà Nguyễn từng cho ta biết điều đó.

            Sách Đại Nam liệt truyện nhận xét: “[Nguyễn Văn] Thành trang mạo đẹp đẽ tính trầm nghị, thích đọc sách, tài võ nghệ…”[3] hay “… Thành biết chữ, hiểu nghĩa sách, biết đại thể, ở trong số chư tướng Vua (tức Gia Long – TG) trọng Thành hơn cả, không cứ việc lớn, việc nhỏ đều hỏi để quyết đoán…”[4].

            Với lời nhận xét trên của sử thần triều Nguyễn, chúng ta hiểu rằng họ muốn khẳng định Nguyễn Văn Thành là bậc trọng thần của vua Gia Long, văn võ song toàn, tài đức kiêm bị.

            Thời bấy giờ, sau mấy chục năm chiến tranh liên miên, vùng đất Bắc thành rơi vào tình trạng: “… quyền cương đảo lộn, chính trị trễ tràng, bọn hào hữu vũ đoán trong làng xóm, dân phong ngày thêm điêu bạc, kiện tụng rối bời, trộm cướp tứ tung… chính trị phong tục ngày càng thối nát…”[5]. Trước tình trạng ấy, cần phải có một người đủ tài đức, có cả ân lẫn uy để đưa xã hội vào kỷ cương, khiến cho cuộc sống của người dân lành được bình yên, no ấm.

            Sử triều Nguyễn ghi chép khá nhiều dòng nhằm ca ngợi tài đức của Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành thời kỳ tại nhiệm.

            “Tháng 9 năm Nhâm Tuất (1802), vua sắp hồi loan, quay xe về Kinh, bèn cho Thành làm Tổng trấn Bắc thành. Ban cho sắc ấn trong ngoài 11 trấn, đều thuộc vào cả, các việc truất nhắc quan lại, xử quyết việc án đều được tiện nghi làm việc… Thành dâng biểu xin từ, Vua xuống tờ Chiếu khen rằng: “Việc Bắc thành đều giao cho ngươi cả”, Thành lậy nhận mệnh. Bấy giờ Thành mời trấn phủ trăm họ, chiêu dụ hào kiệt, những Hương cống, Tiến sĩ đời Lê đều đến cửa Thành lấy lễ hậu đãi, họ đều vui làm việc”[6].

            “Mùa Đông năm Gia Long thứ 5 (1806), Thành vào Kinh chầu, lại dâng địa đồ nội ngoại 11 trấn, và các phủ châu huyện cộng 164 bản.

            Vua yêu đến các quan cũ có công to, mỗi khi Thành đến chầu, bèn cho ngồi thong thả hỏi han, Thành cũng đem hết sức tiềm tàng, tình hình ngoài biên, sự đau khổ của dân, kế hoạch Nhà nước, mưu kế việc binh, biết cái gì là nói hết, cũng nhiều điều bổ ích”[7].

            Sách Đại Nam thực lục chép nhiều việc làm thương dân của Nguyễn Văn Thành, với ý khẳng định công lao và biểu dương đức độ của ông:

            “Tháng 6 năm Giáp Tý (1804): Bắc thành nước lớn, đê vỡ, thành thần (tức vị đại thần đứng đầu “Thành” – TG) đem thóc kho phát chẩn rồi đem việc tâu lên…”[8].

            “Tháng 7 năm Giáp Tý (1804): Quan Bắc thành tâu rằng: “Liền năm đê vỡ, các trấn tại hại rất nhiều. Xin phàm việc không cần kíp và kiện vặt ở các nha đều cho hoãn cả. Thuế mùa hạ và thuế trốn thiếu năm trước (1803) cũng xin đều thu vào mùa đông, để dân đỡ cấp bách”. Vua nhận lời tâu[9].

            “Tháng 11 năm Giáp Tý (1804): Quan Bắc thành tâu xin dựng nhà coi việc ở cửa Nam thành, cứ năm ngày một lần họp quan lại để bàn việc. Ai có tình trạng uất ức, đã qua ba nha: trấn, phủ, huyện mà chưa được phục tình, thì cho đầu đơn để xét cho rõ lý. Vua y theo lời tâu”[10].

            “Tháng 12 năm Giáp Tý (1804): Quan Bắc thành tâu rằng: “Các nha hỏi việc hình còn nhiều án tích lại, làm lụy cho dân. Xin cứ đến cuối năm kiểm soát, trước sau ba nha: trấn, phủ, huyện đều ghi sổ những án xét để làm bằng mà kê cứu”. Vua y lời tâu”[11].

            “Tháng 6 năm Ất Sửu (1805): Quan Bắc thành tâu: “Gần đến mùa mưa lụt, sợ đê điều thẩm lậu, xin lấy dân sửa đắp và dự trữ đống đất và tre gỗ ở trên mặt đê để phòng bị”. Vua y theo lời”[12].

            Dưới thời quân chủ ở phương Đông, những nước chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, như: Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản… giai cấp thống trị thường thi hành công việc trị quốc theo đường lối Nhân chính 仁 政 của Mạnh Tử.

            Nhân chính 仁 政 là nền chính trị dựa trên đức Nhân. Nội dung chủ yếu của Nhân chính, đại thể bao gồm những vấn đề sau:

            - Giảm nhẹ hình phạt

            - Thu nhẹ thuế khóa

            - Tạo điều kiện để người dân an cư lạc nghiệp

            - Phát triển tăng gia sản xuất thóc lúa, dâu gai.

            Mạnh Tử chủ trương một nền chính trị nhân hậu, lấy mục đích bảo vệ nhân dân làm trọng yếu. Chính sách “bảo dân” ấy, gồm có chương trình dân sinh, kinh tế và giáo hóa. Mạnh Tử đã diễn giải rõ rệt cái gốc của chính trị là điều hòa nền kinh tế, sản xuất cho dồi dào và quân bình, nhấn mạnh vào điểm thực tế “Dân dĩ thực vi tiên” (Dân lấy ăn làm đầu), chứ không thuyết nhân nghĩa một cách không tưởng.

            Trung thành với quan điểm “Thứ chi – Phú chi – Giáo chi” 庶 之 - 富 之- 教 之 (Vua đứng đầu một quốc gia phải làm cho dân đông, phải làm cho dân giầu và phải giáo dục, dậy dỗ họ) của Khổng Tử, theo ý Mạnh Tử, Nhà nước không những phải giúp nhân dân luôn có tài sản (chữ Hán là: Hằng sản 恆 產), mới giữ được tấm lòng tốt thường xuyên (chữ Hán là Hằng tâm 恆 心).

            Qua những bản điều trần và những việc làm của Nguyễn Văn Thành trong thời kỳ làm Tổng trấn Bắc thành, chúng ta thấy ông tỏ ra hiểu rõ đường lối Nhân chính của Mạnh Tử, vừa nói trên. Ông hiểu rõ rằng: Người dân cần phải có tư liệu sản xuất thiết yếu là ruộng đất, thì mới đảm bảo đời sống được. Vì vậy, ngay từ tháng 3 năm Quý Hợi (1803), tức là chỉ sau có vài tháng trên cương vị Tổng trấn Bắc thành, Nguyễn Văn Thành đã dâng sớ lên triều đình Phú Xuân những điều thiết thực đối với đời sống của nhân dân như sau: “Bọn thần trộm nghĩ rằng nhà vua phát thi nhân chính, trước hết là ở việc chia ruộng, cấp lộc. Điều chế có thi hành thì quan mới có thường lộc, dân mới có thường sản, sẽ không có cái lo về bọn hào hữu kiêm tính nữa. Xin trước hết hạ chiếu văn lấy việc đổi cũ theo mới mà dụ rằng vốn muốn lo tính sinh kế cho dân, lại lượng giảm bớt tô dung, để tỏ ân tín, khiến lòng dân mừng phục, rồi sau mới cử hành”[13].

            Sau đó, Tổng trấn Nguyễn Văn Thành xin trình bầy 3 điều sau:

1. Sửa đúng sổ ruộng (Địa bạ) để cho tiện việc quân cấp.

            2. Xét sổ đinh (Đình bạ) để rõ số dân.

            3. Chọn người hiền tài để trao quan chức[14].

            Một trong các mục đích của đạo học theo tinh thần Khổng giáo là Học dĩ chí dụng 學 以 至 用 (Học là để ứng dụng vào thực tế). Học là để ứng dụng có ích với đời, với quốc gia và xã hội. Vì học có mục đích ứng dụng, cho nên Khổng tử mới dạy học trò:

            “Tụng Thi tam bách, thụ chi dĩ chính, bất đạt; sứ ư tứ phương, bất năng chuyên đối; tuy đa, diệc hề dĩ vi?” (Đọc thuộc 300 bài Kinh Thi, mà trao quyền chính cho, không làm được thông suốt, đi sứ đến bốn phương không ứng đối nổi, thì dẫu học nhiều mà làm gì? – Luận Ngữ - Tử Lộ).

            Có thể nói, xem cách hành xử của Nguyễn Văn Thành thời làm Tổng trấn Bắc thành, thì đủ biết hồi tuổi trẻ ông học tập như thế nào. Nếu ông không phải người học giỏi, chắc chắn ông không thể làm được những công việc như vừa kể trên. Nguyễn Văn Thành thấm nhuần đường lối Nhân chính của Mạnh tử, cho nên những chính sách ông đem thi hành ở Bắc thành từ năm 1802 đến năm 1810, đều nhằm tới mục đích thương yêu người dân lao động, tạo điều kiện cho họ có đời sống no ấm, đầy đủ trong phạm vi nền kinh tế đương thời. Đúng như sử thần triều Nguyễn nhận xét về ông như sau:

            “[Nguyễn Văn] Thành có văn võ, tài lược… Đến lúc Bắc Hà đã định, một mình đương công việc Tổng trấn, không động đến lời nói, nét mặt mà trộm, giặc đều yên, bày mưu chốn miếu đường, tâu bày sự nghi đều được thi hành, có thể gọi là người có mưu giỏi trị nước”[15].

            Chúng tôi cho rằng vào đầu triều Nguyễn, một trong những người có tài chính trị và thương dân hơn cả là Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành. Chúng ta chỉ cần đọc kỹ các bộ chính sử triều Nguyễn ghi chép về Nguyễn Văn Thành và các bạn đồng liêu với ông vào 2, 3 thập niên đầu thế kỷ XIX, thì sẽ thấy rõ điều đó./.

 

 

 


[1]. Đại Nam thực lục. Nxb Khoa học xã hội, H. 2004, tập 1, tr. 772.

[2]. Từ Nguyên: bộ Thị, tập Thìn.

[3]. Đại Nam chính biên liệt truyện. Nxb Thuận Hóa, Huế 1993, tập 2, tr. 346.

[4]. Đại Nam chính biên liệt truyện. Sđd, tập 2, tr. 363.

[5]. Đại Nam thực lục. Nxb Giáo dục, H. 2004, tập 1, tr. 555.

[6]. Đại Nam chính biên liệt truyện. Sđd, tập 1, tr. 363.

[7]. Đại Nam chính biên liệt truyện. Sđd, tập 1, tr. 364.

[8]. Đại Nam thực lục. Sđd, tập 1, tr. 603.

[9]. Đại Nam thực lục. Sđd, tập 1, tr. 615.

[10]. Đại Nam thực lục. Sđd, tập 1, tr. 619.

[11]. Đại Nam thực lục. Sđd, tập 1, tr. 621.

[12]. Đại Nam thực lục. Sđd, tập 1, tr. 634.

[13]. Đại Nam thực lục. Sđd, tập 1, tr. 555.

[14]. Đại Nam thực lục. Sđd, tập 1, tr. 556.

[15]. Đại Nam chính biên liệt truyện. Sđd, tập 2, tr. 372.